Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường Mầm non Xuân Lai

docx 25 trang Phương Thanh 05/02/2025 991
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường Mầm non Xuân Lai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường Mầm non Xuân Lai

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường Mầm non Xuân Lai
Nội dung
Trang
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
3
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
4
1. Thực trạng việc tổ chức“ Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường mầm non Xuân Lai” 
4
 a. Ưu điểm........................... ..................................
4
b. Hạn chế và nguyên nhân.........................................
5
2. Các biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường mầm non Xuân Lai”
6
a, Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh
7 - 8
 b, Biện pháp 2:Tự học tập, bồi dưỡng về kỹ năng thực hành thao tác chăm sóc - vệ sinh cho trẻ.
9 
c, Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua hoạt động vệ sinh: 
12 - 15
 d, Biện pháp 4: Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày
15 - 16
 e, Biện pháp 5: Tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh trong công tác rèn thói quen vệ sinh cho trẻ.
16 - 20
3. Kết quả 
21
4. Kết luận
22
5. Kiến nghị, đề xuất
22
PHẦN III: MINH CHỨNG HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP
23
PHẦN IV: CAM KẾT
24
PHỤ LỤC

 
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
 Sinh thời Bác Hồ nói: “Không sạch sẽ thì bẩn, bẩn thỉu sinh bệnh tật”.
 Bác luôn yêu cầu và kêu gọi: “Mọi người phải chú ý giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khỏe”.
 Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng quan chăm sóc thế hệ trẻ vì trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là thế hệ kế tục và phát triển sự nghiệp của cha ông. Trẻ em phát triển tốt nhờ vào rất nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là yếu tố vệ sinh phòng bệnh vì trẻ em nói chung và trẻ mầm non nói riêng là lứa tuổi dễ mắc bệnh nhất vì cơ thể trẻ trong giai đoạn này sức đề kháng còn yếu.
 Vì vậy công tác chăm sóc và giáo dục vệ sinh cho trẻ nhà trẻ là một việc rất quan trọng và cần thiết giúp trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh , phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành những kỹ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai.
 Là một giáo viên phụ trách lớp 24-36 tháng tuổi, người trực tiếp giảng dạy và chăm lo cho các cháu từng bữa ăn, giấc ngủ tôi nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình cũng như tầm quan trọng của việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ tại nhóm lớp mình phụ trách. Chính vì vậy tôi luôn canh cánh trong lòng và tự hỏi mình: Làm sao? Làm như thế nào? Và cần phải làm những gì? để rèn cho trẻ cho trẻ thói quen vệ sinh một cách tốt nhất.
 Xuất phát từ lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp 2 tuổi D7 trong trường mầm non Xuân Lai”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trẻ mẫu giáo 2 Tuổi D7 trường mầm non Xuân Lai
3. Giới hạn phạm vi:
 - Thời gian nghiên cứu: Từ đầu tháng 10 năm 2021 
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng công tác rèn thói quen vệ sinh cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên tôi đã suy nghĩ trình bày thực tế để tìm biện pháp thực hiện.
Ưu điểm
 Trường mầm non Xuân Lai trong những năm vừa qua nhận được nhiều sự quan tâm của lãnh đạo Sở, phòng Giáo dục, giúp đỡ về cơ sở vật chất .
 Được sự quan tâm của BGH nhà trường mua sắm bổ sung các đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho hoạt động vệ sinh của trẻ.
 Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, năng động, yêu nghề, mến trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần đoàn kết, nhất trí cao, luôn có ý thức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
 Nhà trường duy trì được công tác bán trú, các cháu đi học cả ngày nên thuận lợi trong việc rèn trẻ.
 Các cháu đều ở cùng lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý giống nhau nên dễ dàng trong việc giáo dục.
 Được sự quan tâm của BGH nhà trường thường xuyên cử các đồng chí giáo viên cốt cán đi dự kiến tập về hoạt động giáo dục vệ sinh cho trẻ do Sở tổ chức và tham gia các lớp chuyên đề về công tác vệ sinh do Phòng giáo dục tổ chức nên đã có một số kiến thức và kỹ năng cơ bản về hoạt động vệ sinh.
100% giáo viên có năng lực, trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn.
 Bản thân có điều kiện tham khảo một số tài liệu, tập san qua chuyên đề hè và sách “Hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sóc- giáo dục trẻ mẫu giáo” của Bộ giáo dục và Đào tạo.
 b. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế.
 Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ.
 Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế.
 Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ.
 Công tác phối hợp với phụ huynh của một số giáo viên còn hạn chế.
 Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ.
 Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế.
Một số phụ huynh cha mẹ trẻ quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ.
 Công tác phối hợp với phụ huynh của một số giáo viên còn hạn chế.
* Về phụ huynh:
Đa số cha mẹ của trẻ đi làm kinh tế xa, làm công nhân tại các khu công nghiệp không có thời gian gần gũi chăm sóc con phần lớn đều nhờ cậy ông bà .
* Về cơ sở vật chất:
	Đồ dùng đồ chơi tự tạo còn ít, chưa phong phú về chủng loại, đồ dùng theo thông tư 02 của Sở giáo dục đào tạo cấp phát không được đầy đủ cho các lớp. 
 -Cơ sở vật chất của nhà trường tuy mời nhưng chưa đủ phòng chức năng đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cuả trẻ 
* Nguyên nhân của hạn chế:
 - Bản thân vẫn còn những hạn chế trong công tác đổi mới phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm.
 - Kinh phí cấp đồ dùng trang thiết bị chưa kịp thời, còn hạn hẹp nên việc đầu tư mua sắm trang thiết bị đồ dùng dạy học còn chưa đầy đủ
 - Gia đình bao bọc trẻ quá làm trẻ mất đi tính độc lập và sự tự tin, quyết đoán của bản thân
 - Một số phụ huynh nhận thức còn hạn chế ít quan tâm đến các cháu ,còn tư tưởng coi nhẹ cấp học mầm non
2. Các biện pháp rèn nền nếp thói quen cho trẻ 24-36 tháng tuổi.
 Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã nghiên cứu tìm những biện pháp giải quyết như sau:
2.1. Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh
* Môi trường xã hội:
 Muốn trẻ hứng thú với hoạt động vệ sinh thì việc đầu tiên là phải gây được hứng thú cho trẻ khi đến lớp. Trẻ có thích đến lớp thì mới hứng thú tham gia vào các hoạt động khác. Chính vì vậy mà chúng ta cần xây dựng môi trường thân thiện giúp trẻ tích cực, hứng thú với các hoạt động vệ sinh. Môi trường chăm sóc - giáo dục trong trường mầm non cần đảm bảo an toàn về mặt tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục các kỹ năng xã hội cho trẻ. Hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo.
 * Môi trường vật chất
 Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng, nhóm lớp: Giáo viên xây dựng góc “Rèn kỹ năng sống cho trẻ” với các hình ảnh mang nội dung giáo dục vệ sinh dưới dạng mở để trẻ được thỏa sức lựa chọn những hình ảnh đúng - sai theo khả năng nhận thức của trẻ.
 Làm tốt công tác vệ sinh môi trường nề nếp của lớp. Các cháu ở lớp mẫu thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp đồ dùng gọn gàng, sạch sẽ, mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp điều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.
 Ngoài ra giáo viên cần làm một số sách, tranh có nội dung giáo dục vệ sinh ở góc thư viện. Các hình ảnh trong sách, tranh phải rõ ràng, màu sắc tươi sáng, ngộ nghĩnh hấp dẫn với trẻ.
 Cô cần tạo môi trường gần gũi, phong phú bằng các hình ảnh ngộ nghĩnh tại bồn rửa tay hay trang trí góc vệ sinh cho trẻ.
 * Đồ dùng, dụng cụ vệ sinh
Trong tất cả các hoạt động trong trường mầm non đặc biệt là hoạt động vệ sinh thì đồ dùng trực quan đóng vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao kết quả và ý thức vệ sinh cho trẻ.
Ví dụ: Cô dạy các cháu úp ca cốc thì lớp phải giá để cốc và cốc cho trẻ thực hiện úp, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh cho trẻ.
Để đảm bảo đồ dùng phục vụ cho hoạt động vệ sinh cho trẻ ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê đồ dùng, dụng cụ của lớp để kịp thời tham mưu với nhà trường bổ sung thêm đồ dùng, dụng cụ vệ sinh đảm bảo cho trẻ hoạt động.
2.2. Biện pháp 2: Tự học tập, bồi dưỡng về kỹ năng thực hành thao tác chăm sóc - vệ sinh cho trẻ.
Bản thân tôi luôn xác định muốn rèn luyện cho trẻ nhà trẻ, bé có thói quen trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân thì việc làm đầu tiên là cô giáo phải có kiến thức chuẩn xác về kĩ năng thực hành , chính vì điều đó mà bản thân tôi luôn tìm tòi học hỏi các tài liệu có liên quan đến vấn đề vệ sinh để áp dụng vào dạy trẻ.
 Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.
 Thói quen vệ sinh cần rèn luyện.
 Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp , giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau:
 Trẻ tự rửa mặt, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, chải đầu, đánh răng.
 Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch..
 Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.
 Biết gấp cất trải nệm, gối.
 Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.
 Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.
 Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh.
 Cô cũng cần nắm được các kỹ năng cần rèn cho trẻ như:
 Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh của lớp mầm, ngoài ra cô cần rèn cho trẻ.
 Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.
 Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi
 Bản thân tích cực sưu tầm, nắm vững nội dung và nguyên tắc hướng dẫn thực hành thao tác vệ sinh: Rửa tay, rửa mặt...
Quy trình 6 bước rửa tay cho trẻ mầm non mới nhất của Bộ Y tế
Bước 1: Làm ướt hai bàn tay bằng nước sạch. Thoa xà phòng vào lòng bàn tay, chà xát hai lòng bàn tay vào nhau
Bước 2: Dùng ngón tay và lòng bàn tay này cuốn và xoay lần lượt từng ngón của bàn tay kia và ngược lại.
Bước 3: Dùng lòng bàn tay này chà xát chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại.
Bước 4: Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của bàn tay kia và ngược lại.
Bước 5: Chụm 5 đầu ngón tay của tay này cọ vào lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi, xoay lại.
Bước 6: Xả cho tay sạch hết xà phòng dưới nguồn nước sạch. Lau khô tay bằng khăn hoặc giấy sạch.
 Bản thân luôn tìm tài liệu liên quan để nghiên cứu sau đó trao đổi với hiệu phó phụ trách chuyên môn, các tổ trưởng và giáo viên cùng thực hiện.
 Mạnh dạn đăng kí hoạt động vệ sinh cho buổi hội giảng của trường để BGH, giáo viên góp ý kiến, xếp loại. Đây là một cách làm tạo động lực cho bản thân chú ý đến công tác chăm sóc- giáo dục vệ sinh cho trẻ.
 Nghiên cứu một số tài liệu do nhà trường cấp phát: Bé giữ vệ sinh, bé sạch, thực hành vệ sinh và các lô tô vệ sinh... để tham khảo và hướng dẫn phụ huynh thực hành các thao tác vệ sinh cho trẻ.
 Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.
2.3. Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục
Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua hoạt động vệ sinh: 
 Tổ chức hoạt động vệ sinh là cách thức tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của trẻ. Mục đích là trang bị cho trẻ những tri thức chủ yếu về vệ sinh, giúp trẻ nắm được các thao tác thực hiện trong từng hành động vệ sinh một cách chính xác, đúng đắn, làm cơ sở để luyện tập trong sinh hoạt hàng ngày. Các tiết vệ sinh có thể tổ chức theo từng nhóm nhỏ từ 8 – 10 trẻ vào các thời điểm làm vệ sinh cá nhân, trước khi ăn cơm, trước khi ngủ trưa Trong quá trình tổ chức tiết học vệ sinh cá nhân, giáo viên có thể sử dụng các dụng cụ trực quan như tranh ảnh hoặc các dụng cụ vệ sinh cá nhân (vật thật) để giúp trẻ dễ dàng nắm được cách thức thực hiện, có hứng thú với việc thực hiện hành vi văn hoá vệ sinh.
 Các cháu nhà trẻ bé tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu.
 Để thực hiện tốt hoạt động vệ sinh thì cô phải chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và động tác mẫu.
 Các cháu có thể thực hiện các công việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích, cô có thể tập truớc cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo.
 Nhắc nhở các cháu thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm cho trẻ được thực hành thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ. Hành động sẽ trở thành thói quen khi đứa trẻ có nhu cầu từ bên trong.
 Ví dụ: Cháu Thu Trang sau khi ăn xong nếu cháu không uống nước thì cháu thấy rất khó chịu và không chịu đi ngủ.
 Lồng ghép vào các hoạt động học có chủ đích: Trong quá trình tổ chức các hoạt động học tập cho trẻ, thông qua những môn học, bài học cụ thể như: Khám phá khoa học; Khám phá xã hội; Làm quen với tác phẩm văn học Giáo viên có thể tiến hành tích hợp nội dung giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ. Tuy nhiên khi tiến hành lồng ghép giáo viên cần chú ý đảm bảo tính tự nhiên, hợp lý, khách quan của tri thức môn học; đảm bảo tính hệ thống, trọn vẹn của nội dung hoạt động học tập; đảm bảo tính vừa sức cho trẻ. Để lồng ghép nội dung giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ thông qua các hoạt động học tập có hiệu quả, khi tiến hành tích hợp giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học, lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp, từ đó xác định nội dung giáo dục thói quen hành vi văn hoá cụ thể cần lồng ghép, thời điểm lồng ghép và yêu cầu cần đạt được.
 Ví dụ: Qua giờ làm quen văn học với đề tài: Truyện “Gấu con bị đau răng” cô giáo dục trẻ biết vệ sinh răng miệng sạch sẽ vào buổi sáng sau khi ngủ dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. 
 Hoặc kể chuyện theo tranh “Mẹ tắm cho em bé”.
Mục đích: Củng cố cho trẻ biết cách giữ gìn vệ sinh các bộ phận cơ thể: mắt, mũi, miệng, tay, chân..
Chuẩn bị:Tranh to và màu sắc đẹp “ Mẹ đang tắm cho em bé”
Một số câu hỏi để hỏi khi trẻ xem tranh
Một búp bê để minh hoạ.
Tiến hành: Đọc cho trẻ nghe bài thơ “Yêu mẹ”
 Cô hỏi trẻ ở nhà ai thường tắm cho các con?
 Cô cho trẻ xem tranh “Mẹ đang tắm cho em bé” và hỏi trẻ: Tranh vẽ gì đây các con? Mẹ đang làm gì? Bé đang làm gì?
 Sau đó cô kể cho cháu nghe câu chuyện theo sự sáng tạo của cô. Có thể kể như sau: Hôm qua chủ nhật, Băng ở nhà chơi với chị, trời nắng mà tay chân bị bẩn , mẹ tắm cho Băng, Băng thích lắm. Mẹ lần lượt gội đầu, rửa mặt, kỳ cọ tay chân và toàn thân một cách nhẹ nhàng bằng nước mát rượi.
 Hay ở hoạt động khám phá khoa học đề tài “Tìm hiểu một số loại quả” cô giáo dục trẻ trước khi ăn phải biết rửa tay, rửa hoa quả, gọt vỏ trước khi ăn và biết bỏ rác đúng nơi quy định.
2.4. Biện pháp 4: Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày
 Tổ chức cho trẻ luyện tập trực tiếp, thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày: Trẻ lứa tuổi mầm non có đặc điểm mau nhớ, chóng quên, vì vậy mỗi hành vi văn hoá vệ sinh đã hình thành cho trẻ cần phải được luyện tập củng cố một cách thường xuyên. Cho trẻ thực hành thường xuyên trong các thời điểm sinh hoạt hàng ngày (khi đón, trả trẻ, khi tổ chức cho trẻ ăn, ngủ, chơi học..), đó là cách luyện tập tốt nhất để giúp trẻ biến những kỹ năng đã hình thành trở thành kỹ xảo, thói quen. Ví dụ khi tổ chức cho trẻ ăn cô giáo hướng dẫn trẻ rửa tay, lau miệng trước và sau khi ăn; dạy trẻ trước khi ăn phải mời mọi người, khi ăn phải nhai kỹ, không được ngậm thức ăn trong miệng, không được dùng tay bốc thức ăn, không vừa ăn vừa nói chuyện; Trong giờ chơi cô giáo hướng dẫn trẻ cách chơi với đồ vật, đồ chơi, cách giao tiếp, giúp đỡ bạn trong quá trình cùng chơi; không được tranh giành đồ chơi với bạn, không được đập, phá làm hỏng đồ chơi Khi trẻ thực hiện các hành động cô giáo cần giám sát, kiểm tra, đánh giá, động viên khen ngợi kịp thời những trẻ làm đúng, làm tốt, hướng dẫn, uốn nắn, điều chỉnh những trẻ làm chưa đúng. Thông qua việc luyện tập thường xuyên, hàng ngày, với sự giúp đỡ và giám sát chặt chẽ của giáo viên, trẻ sẽ có được những kỹ năng thực hiện hành động có văn hoá vệ sinh, dần dần những kỹ năng đó sẽ trở thành thói quen, thành nhu cầu bên trong của trẻ. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày.
 Ví dụ: Lúc đón trẻ vào lớp phải chào cô, cô hướng dẫn trẻ xếp mũ nón vào giá, chải đầu, đi dép đúng chân.
 Trong giờ trò chuyện cô có thể gợi hỏi: “Mỗi sáng thức dậy các con thường làm gì?
 + Khi đánh răng các con cầm bàn chải bằng tay nào?
 + Chải răng xong các con làm gì?
 + Sau khi chải răng, rửa mặt xong các con làm gì?
 + Khi ăn các con có làm rơi vãi cơm không?
 - Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay lau mặt, mời cô, các bạn, cầm thìa đúng tay.
 - Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoàm và nuốt vội.
 - Không ngậm thức ăn lâu trong miệng - không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung.
 Không xúc qua đầu, không bỏ dở suất ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng - ăn xong lau miệng.
 Uống nước từ từ, không

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_thoi_quen_ve_sinh.docx