Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non

pdf 19 trang Phương Thanh 04/04/2025 290
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non
Trường Mầm non Trung Kênh
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM " MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC CHO TRẺ 3-4 TUỔI
TRONG TRƯỜNG MẦM NON"
Phần 1: MỞ ĐẦU
1.Mục đích của sáng kiến
thi
Bác Hồ vị cha già dân tộc, lúc sinh thời Bác luôn dành tình cảm và sự quan tâm tới
ếu niên và nhi đồng “ai yêu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh”.Chính vì yêu trẻ thơ
nên Bác rất hiểu trẻ, Bác đã từng nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan ”
Đúng vậy khi mới sinh ra trẻ như một cái búp mới chớm nở ở trên cành, nếu được sự
quan tâm chăm sóc của mọi người búp sẽ cho ta bông hoa đẹp, ở tuổi này chỉ cần trẻ
biết ăn, biết ngủ biết học thế là ngoan và cũng trong thời kỳ này trẻ luôn là trung tâm
của mọi người trong gia đình và xã hội. Vì vậy mỗi chúng ta ai cũng muốn “dành cho
trẻ những gì tốt đẹp nhất mà mình có thể”. Cũng chính vì vậy mà trong những năm
gần đây, Đảng và nhà nớc ta luôn luôn quan tâm và đầu t cơ sở vật chất trang thiết 
 non bởi đối với trẻ việc đi học, đến
trường
 là một bước ngoặt lớn, ở đó trẻ được học được chơi với các bạn, được cô chăm
sóc,
giáo
 dục rất ân cần và cẩn thận. Mong muốn của các cô là làm sao để giúp trẻ
phát
triển
một
 cách toàn diện về thể chất , ngôn ngữ , nhận thức , thẩm mỹ và tình cảm
xã
hội.
Để
đạt
 được những mong muốn đó thì ngoài tình yêu bao la mà các cô giáo
dành
cho
trẻ
thì
các
 cô giáo phải là những người hiểu trẻ .
 Với đặc điểm của lứa tuổi mầm non trẻ rất tò mò và ham hiểu biết, thế giới xung
quanh trẻ với bao điều bí ẩn nên trẻ đều muốn khám phá, tìm tòi hay đưa ra những
câu hỏi, sự thắc mắc đối với người lớn “Tại sao cái này nổi, cái kia chìm”?. Tại sao
con nhện lại bò được trên trần nhà? Tại sao khi con đi con cũng thấy ông trăng đi
theo con? Tại sao? Tại sao? Và tại sao?...Khoa học bắt đầu từ sự tò mò đó của trẻ.
Đôi khi những câu trả lời trực tiếp của người lớn chưa đáp ứng được sự thỏa mãn của
trẻ. Hơn nữa cách giải quyết trực tiếp vô hình chung tạo cho trẻ thói quen ỉ lại vào
người lớn, không biết thì hỏi mà không chịu tìm hiểu. Trẻ có khả năng ghi nhớ các
kiến thức được áp đặt nhưng không hình thành được các kĩ năng, ngôn ngữ phát triển
chưa cao.Vì vậy tôi nghĩ không có gì tốt hơn là cố gắng tạo mọi điều kiện cho trẻ
được trực tiếp trải nghiệm và khám phá những điều mà trẻ thắc mắc đó.
Nhưng hiện tại thì tôi thấy các hoạt động khám phá khoa học của trẻ mầm non đang
gặp khó khăn về cơ sở vật chất. Nếu giáo viên không quan tâm tạo điều kiện học tập
phát huy hết tính tích cưc, không sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động làm cho trẻ
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
1 of 19
bị 
cho ngành giáo dục, đặc biệt là bậc học mầm
chú ý vào tiết học thì hiệu quả không cao, hơn nữa hiện nay các hoạt động khám phá
khoa học cho trẻ 3 – 4 tuổi còn rất tẻ nhạt, giáo viên ngại dạy, trẻ còn chưa hứng thú
học tập. Từ đó trẻ chưa thỏa mãn được trí tò mò cho nên trẻ không vui.
Vì vậy, qua nhiều ngày suy nghĩ tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 3 - 4 tuổi trong
trường mầm non” để nghiên cứu.
2. Những điểm mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến:
Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài những kết quả đạt được về thực tiễn thì đề tài
còn có những ưu điểm nổi trội như sau:
* Điểm mới của sáng kiến:
- Giáo viên có những biện pháp, những thủ thuật để lên kế hoạch cho hoạt động
khám phá khoa học đạt hiệu quả cao hơn
- Đề tài đưa ra được một số biện pháp, giải pháp mang tính khả thi nhằm phát triển
tính năng động, phát triển khả năng vận động tích cực, mạnh dạn, tự tin cho trẻ một
cách tốt nhất khi tham gia vào hoạt động “ Khám phá khoa học”
- Rèn khả năng phân tích, tri giác, so sánh tổng hợp ở trẻ.
* Ưu điểm nổi bật của sáng kiến:
- Kết quả của đề tài đã khẳng định tính hiệu quả của việc giáo dục trẻ theo phương
pháp đổi mới lấy trẻ làm trung tâm - một yêu cầu rất quan trọng mà phòng giáo dục
chúng tôi yêu cầu tới tất cả các trường cần thực hiện.
- Trẻ tích cực tập chung chú ý và rất thích thú, hào hứng khi tham gia hoạt động
khám phá, nắm bắt kiến thức một cách có hệ thống, có tổ chức mà trẻ vẫn cảm thấy
tự nhiên, thoiar mái, tự tin không bị gò ép.
- Trẻ được tự cảm nhận và khám phá mọi thứ xung quanh thông qua các hoạt động
bằng chính giác quan và trực giác của mình. Từ đó góp phần phát huy tính tích cực
của trẻ trong hoạt động để trẻ phát triển một cách toàn diện hơn.
3. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm: 
* Đối với giáo viên:
- Góp phần giúp các giáo viên có những biện pháp, những cách thức để thu hút trẻ
tránh tình trạng giáo viên cứng nhắc trong việc tổ chức hoạt động khám phá khoa
học.
- Thông qua tổ chức hoạt động khám phá khoa học, giáo viên sẽ tạo cơ hội cho trẻ
được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm. Tổ chức hoạt động khám phá khoa học phù hợp
sẽ giúp trẻ tìm ra cái mới, tiếp cận với những tri thức khoa học, tích cực hoạt động
nhận thức.
* Đối với trẻ:
- Có sự tiến bộ nhanh về quan sát, tư duy, phân tích, so sánh tổng hợp của trẻ khi
tham gia hoạt động khám phá khoa học.
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
2 of 19
- Phát huy hết tính tích cực, sáng tạo của trẻ trong hoạt động khám phá khoa học và
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ.
Phần 2. NỘI DUNG
Chương 1: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ MÀ SÁNG KIẾN ĐỀ CẬP ĐẾN
1 .Thuận lợi:
* Về phía nhà trường:
- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia học tập các lớp bồi
dưỡng do phòng, sở tổ chức
- Tổ chức các cuộc thi “ Bé khéo tay, cô sáng tạo”, “ Sáng tạo làm đồ dùng đồ chơi”
để rèn luyện và phát triển đôi bàn tay khéo léo của cô và trẻ trong việc làm đồ dùng
đồ chơi phục vụ cho tiết dạy, cho các phong trào của nhà trường, của phòng.
- Được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, giáo viên trường tôi luôn được thăm
quan và kiến tập các trường bạn, học tập, tập huấn tại phòng giáo dục một cách
thường xuyên. Trang thiết bị ở trường luôn được đầu tư nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học.
- Trường có đội ngũ giáo viên có bề dày kinh nghiệm. Trường đạt chuẩn Quốc gia là
cơ hội để tôi học tập và trao đổi kinh nghiệm.
* Về phía giáo viên:
- Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi dưới mọi hình thức để nâng cao năng
lực chuyên môn. Tìm tòi và tự làm đồ dùng đồ chơi để phục vụ tiết dạy phục vụ cho
hoạt động vui chơi của trẻ.
* Về phía trẻ:
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
3 of 19
- Đa số trẻ ngoan có nề nếp và có sức khỏe, hứng thú tham gia vào các hoạt động do
cô tổ chức .
* Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh hiểu và quan tâm hơn, biết phối hợp chặt chẽ với giáo viên trong công
việc chăm sóc giáo dục trẻ.
2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi thì tình hình thực tiễn của việc tổ chức các hoạt động cho
trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi khám phá khoa học của giáo viên còn nhiều vướng mắc.
* Về giáo viên:
- Giáo viên chưa có nhiều thời gian để làm thêm đồ dùng đồ chơi phục vụ các hoạt
động.
- Một số giáo viên sử dụng phương pháp tổ chức hoạt động khám phá khoa học còn
gò bó mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy tính sáng tạo của trẻ và chưa lấy
trẻ làm trung tâm.
* Về học sinh:
- Do mới đầu năm nên trẻ vẫn còn bỡ ngỡ, lóng ngóng khi tham gia hoạt động. Vì
vậy khi tham gia hoạt động học kéo dài trẻ thấy bị gò bó.
* Về phụ huynh
- Nhận thức của các bậc phụ huynh đối với việc cho trẻ khám phá khoa học còn hạn
chế, một số phụ huynh bắt trẻ học theo sự sắp đặt của mình, áp đặt lên trẻ khiến cho
trẻ không thích tham gia hoặc tham gia nhưng hiệu quả không cao.
Qua thực tế khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số trẻ là 34:
Stt Nội dung Xếp loại
Tốt Khá TB Yếu
1 Hứng thú tích cực
tham gia vào hoạt
động
5 7 11 11
2 Có khả Quan sát 4 8 13 12
3 Khả năng so sánh 6 9 11 10
4 Khả năng phân loại 4 9 10 11
Từ kết quả trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện pháp để tổ chức “ Hoạt
động khám phá khoa học” đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó nâng dần khả năng quan sát,
so sánh và phân loại của trẻ, làm phong phú biểu tượng về môi trường xung quanh
trong mỗi trẻ, kích thích trí tò mò khi trẻ tham gia vào hoạt động “ Khám phá khoa
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
4 of 19
học”.
Chương 2: NHỮNG GIẢI PHÁP MANG TÍNH KHẢ THI
1. Tự học, tự nghiên cứu, tham gia giao lưu chuyên môn:
Dưới sự chỉ đạo của phòng GD & ĐT, Ban giám hiệu đưa ra nhiệm vụ cho chúng tôi
thực hiện phong trào “ Học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và
mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương tự học tự sáng tạo.”
Với tinh thần đó, bản thân tôi luôn nghĩ: Để có kiến thức chuyên môn vững vàng,
đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng tương đối câu trả lời và sự hiếu kì của
trẻ thì tôi phải luôn luôn trau dồi tri thức, tự học, tự nghiên cứu dưới mọi hình thức:
Đồng nghiệp, chuyên san, internet, sách báo,.
Thời gian qua được sự quan tâm của Phòng GD và Ban giám hiệu, giáo viên chúng
tôi luôn được học hỏi và giao lưu chuyên môn, kiến tập vào các dịp hè. Đây cũng là 1
yếu tố để tôi tiếp thu và tích luỹ kinh nghiệm chuyên môn cho bản thân, tự tin và
vững chắc hơn trong việc thực hiện lên kế hoạch giáo dục cho các hoạt động. Đặc
biệt là hoạt động khám phá khoa học.
2. Xây dựng môi trường học tập:
Trẻ là chủ thể tích cực, giáo viên là người tạo cơ hội hướng dẫn, gợi mở các hoạt
động tìm tòi khám phá của trẻ. Trẻ chủ động tham gia các hoạt động đó để phát triển
khả năng, năng lực của mình. Trước những vấn đề trên, không chỉ cho trẻ hoạt động
tích cực trong giờ học mà còn phải cho trẻ hoạt động tích cực ở giờ chơi và mọi lúc
mọi nơi. Cho nên việc tạo môi trường học tập xung quanh lớp cho trẻ là rất cần thiết,
nhằm tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân nhiều hơn, được tự do khám phá theo ý
thích, theo khả năng của mình giúp trẻ phát hiện nhiều điều mới lạ, hấp dẫn trong
cuộc sống, các kiến thức kỹ năng của trẻ được củng cố và bổ sung.
Sau đây tôi xin được tạo môi trường học tập của lớp mình:
2.1. Môi trường trong lớp:
* Trang trí các mảng chủ đề :
- Trang trí hình ảnh phù hợp với chủ đề, bên trên là hình ảnh biểu tượng về chủ đề
còn bên dưới là góc mở - là nơi trưng bày sản phẩm do cô và trẻ tự làm về chủ đề đó.
Ví dụ: chủ điểm “ Thế giới động vật” thì dán các con vật lên để trẻ có được biểu
tượng hình ảnh về các con vật trong chủ đề. Bên dưới thì tôi cho trẻ làm các sản
phẩm về thức ăn của các con vật, hay môi trường sống của các con vật, hay cách di
chuyển, đẻ con, đẻ trứng, trẻ làm và dán vào các chủ đề nhánh. Đến cuối chủ đề thì
cô và trẻ cùng nhau củng cố hết kiến thức về chủ đề đó trên chính những bức tranh
và những sản phẩm mà trẻ làm ra đó. Sang chủ đề khác thì bóc dần ra và dán chủ đề
mới vào.
Hình ảnh sưu tầm phải rõ ràng, màu sắc đẹp. Khuyến khích sản phẩm của trẻ tự làm
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
5 of 19
- Hình ảnh dán phải vừa tầm mắt của trẻ: Không quá cao, không quá thấp ( Hình ảnh
1)
* Xây dựng góc “Bé với thiên nhiên” , “ Bé yêu khoa học”:
Góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây cối: Nhặt cỏ, bắt sâu,
tưới nước. Tôi xây dựng góc thiên nhiên có cây xanh như: Vạn niên thanh, dàn dây
leo, có đất, nước, cát sỏi.... để cho trẻ làm thí nghiệm:
Ví dụ : Chuẩn bị những chậu nhỏ, nước, đất, hạt để làm thí nghiệm sự nảy mầm của
hạt,
Hay chuẩn bị những chậu cây, bình tưới nước để làm thí nghiệm cây cần có nước,
hay chuẩn bị những bể cá để cho trẻ được quan sát và cho cá ăn... hay chuẩn bị
những băng vải để cho trẻ làm thí nghiệm về sự cần thiết của ánh
sáng với cây cối.
Còn ở góc “ Bé yêu khoa học” để trẻ có tính độc lập, trẻ trải
nghiệm một cách sâu sắc hơn về môi trường xung quanh và tạo
sự không nhàm chán với trẻ tôi chuẩn bị rất nhiều sách về thiên
nhiên, các tranh ảnh vể thế giới tự nhiên để cho trẻ xem. Tôi
 cũng thường xuyên trao đổi ý tưởng theo từng chủ đề với trẻ.
Để cô và trẻ cùng thay đổi góc, xây dựng góc mới lạ hơn, kích
thích trẻ hơn. Giúp trẻ vừa được trải nghiệm, vừa được khám
phá và có tính trách nhiệm hơn sau thành quả xây dựng của
mình. Từ đó trẻ có ý thức chăm sóc và bảo vệ sản phẩm của
mình hơn. ( Hình ảnh 2)
2.2. Môi trường ngoài lớp học:
Tôi cùng giáo viên trong cụm đi vận động phụ huynh học sinh
ủng hộ cây xanh với nhiều chủng loại khác nhau. Thực hiện
công tác xã hội hóa giáo dục để làm công trình “Khu vườn tuổi
thơ” . Trong “Khu vườn tuổi thơ” đó tôi gắn kết tất cả con vật,
hiện tượng thiên nhiên và mọi vật xung quanh sẽ đến gần bên
trẻ, để trẻ có cơ hội hiểu rõ hơn về môi trường xung quanh cũng
như được tăng thời lượng vận động hơn.
 3. Sáng tạo làm đồ dùng đồ chơi:
Đồ dùng trực quan là một công cụ không thể thiếu trong công
việc giáo dục mầm non. Bởi lẽ, đó là đặc điểm đặc trưng của
nghành. Vì trẻ mầm non là lứa tuổi non nớt, chập chững bước
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
6 of 19
vào và hòa nhập dần với cuộc sống sinh hoạt con người. Sự tư
duy và vốn kiến thức không đáng kể hay nói cách khác là kinh
nghiệm sống với trẻ là một tờ giấy trắng cho nên đồ dùng trực
quan có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, mà nếu thiếu, trẻ sẽ
không tham gia tích cực, sao nhãng và mau quên khi tham gia
vào hoạt động học tập.
Đồ dùng học tập của trẻ phải đẹp, hấp dẫn, phong phú và sinh
động nhằm kích thích hứng thú, sự tò mò và lòng ham hiểu biết
của trẻ. Cho nên, ngoài đồ dùng thật, ngoài thiết bị giảng dậy
mà nhà trường cung cấp thì vẫn chưa đủ so với yêu cầu của trẻ (
thường là mỗi trẻ một đồ dùng )
Ví dụ: Tôi lấy đôi tất sau đó khâu và nhồi bông làm con mèo,
lấy vải voan làm con bướm, lấy vỏ mảnh trai làm con cá... tôi
thường sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
như: Củi vụn, cọng rơm khô, lá hoa khô, vỏ cây khô để làm
tranh ảnh cho tiết dạy. Và với bàn tay khéo léo của mình tôi còn
vẽ những bức tranh nhỏ để cho trẻ làm lô tô như lô tô về
phương tiện giao thông, lô tô về con vật sống trong gia đình, lô
tô về các loại rau, lô tô về các hiện tượng tự nhiên ...
Vậy là, từ những nguyên liệu tưởng chừng như bỏ đi tôi vừa
cung cấp thêm biểu tượng về môi trường xung quanh, lại giáo
dục trẻ kỹ năng sống, biết tiết kiệm và sáng tạo, chế biến
những đồ phế thải thành những đồ có ích và giúp cho làm sạch
môi trường xung quanh bé, góp phần bảo vệ hành tinh xanh của
trẻ. ( Hình ảnh 3)
4. Tổ chức hoạt động học có chủ đích - Hoạt động khám
phá khoa học
Như tôi đã nói ở trên: Môi trường là cái gì đó khá trừu tượng,
khô khan, cứng nhắc hay môi trường là một khái niệm gắn liền
với sự sống bao gồm những thực thể và các hiện tượng trong tự
nhiên bảo đảm cho sự phát sinh và bảo đảm cho sự sống. Để trẻ
tham gia tích cực vào môi trường xung quanh thì giáo viên phải
làm tốt một số công việc sau:
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
7 of 19
4.1. Làm tốt công tác chuẩn bị :
Trước tiên muốn tổ chức tốt một hoạt động khám phá khoa học
cho trẻ. Bản thân tôi phải lên kế hoạch từ kế hoạch năm cho đến
kế hoạch tháng, kế hoạch ngày. Ngay từ đầu năm học dưới sự
chỉ đạo của Phòng giáo dục và đào tạo thì giáo viên chúng tôi
đã xây dựng kế hoạch năm học. Dựa vào mục tiêu phát triển
cuối độ tuổi mà chúng tôi xây dựng các hoạt động khám phá
khoa học cho từng chủ đề.
Khi đến kế hoạch ngày, để tiến hành những hoạt động khám
phá khoa học thì bản thân tôi phải tiến hành soạn bài trước một
tuần, bài soạn phải xác định được mục đích yêu cầu, nội dung
giảng dạy phải khoa học, sáng tạo và đúng phưong pháp
Chuẩn bị đồ dùng: Với những hoạt động có chủ đích về khám
phá khoa học thì không có gì hấp dẫn hơn là chuẩn bị những vật
thật để cho trẻ khám phá
Ví dụ: “ Khám phá về quả cam” thì tôi chuẩn bị những quả cam
đề cho trẻ khám phá, ngoài ra tôi còn chuẩn bị một đĩa cam đã
bóc vỏ để cho trẻ ăn và cảm nhận hương vị của quả cam ....
Tích lũy kiến thức cho trẻ: Mọi lúc mọi nơi, hoạt động ngoài
trời, hoạt động góc thiên nhiên, góc khám phá khoa học, qua
ngưòi lớn, qua hệ thống truyền thông,...
- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi: Câu hỏi mở có nhiều cách trả lời,
ngắn gọn, dễ hiểu kích thích tư duy và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ
4.2. Tạo hứng thú cho trẻ trong phần giới thiệu bài :
Biểu tượng về thế giới xung quanh đã đến với trẻ bởi các hình
thức vào bài, đặt vấn đề để dẫn dắt vào nội dung chính đa dạng,
sinh động như: Câu đố, bài hát, ca dao, tục ngữ, đóng kịch, vật
thật , giúp trẻ không bị nhàm chán, lại dễ tiếp thu để trẻ ghi
nhớ và chính xác hóa thành biểu tượng của mình:
Ví dụ: Cho trẻ làm quen khám phá về con cua thì ngay phần ổn
định tổ chức tôi cho trẻ đoán câu đố
SÁNG KIENS KINH NGHIỆM
8 of 19
 “Con gì tám cẳng hai càng
 Một mai hai mắt bò ngang cả đời?”
Trẻ đoán ngay là con cua, nhưng trong đầu trẻ biểu tượng về
con cua được chính xác là con cua có hai càng to, có tám chân
này, lại còn bò ngang nữa.
4.3. Bài mới (Nội dung hoạt động):
Với phương pháp dạy học đổi mới như hiện nay là dạy học lấy
trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực của trẻ, cô giáo chỉ là
người giúp đỡ trẻ và củng cố khái quát lại những kiến thức mà
cung cấp cho trẻ thì ngay trong phần đầu của tiết dạy thì tôi
thường dành thời gian cho trẻ hoạt động nhóm để trẻ thảo luận
trao đổi với nhau về đặc điểm đặc trưng, tính chất, tác dụng...
của sự vật.
Trong quá trình trẻ trao đổi, giáo viên nên biết chấp nhận với
cái sai của trẻ chứ không được cho đó là “lỗi”. Giáo viên không
nên áp đặt suy nghĩ của mình để rút ngắn thời gian suy nghĩ,
tìm tòi, thử nghiệm của trẻ, cũng không nên lo lắng sợ trẻ
không biết, trẻ không nói được hoặc nói sai ý của cô. Thực tế,
rất nhiều trẻ đã tích lũy được kinh nghiệm và hiểu biết từ nhiều
nguồn khác nhau và chúng sẵn sàng thể hiện điều đó. Đặc biệt
không nên phủ nhận ý kiến, kết quả trẻ đang khám phá là không
đúng mà nên hiểu rằng đó là cơ hội cho trẻ so sánh phát hiện
của mình có khác so với suy nghĩ trước đây của mình hay
không?.
Qua hoạt động đó khai thác được kiến thức của trẻ, và qua đó
cô giáo cũng biết được kiến thức của trẻ ở mức độ nào để có
biện pháp tiếp theo
Sau đó tôi chính xác lại biểu tượng về sự vật hiện tượng cho trẻ
bằng cách trực tiếp cho trẻ tiếp xúc khám phá bằng các giác
quan
Ví dụ: Với đề tài “ Tìm hiểu về xe máy, ô tô” thì cho trẻ nghe
âm t

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_lu.pdf