Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường mầm non
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường mầm non
MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 2 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 1. Thực trạng việc tổ chức một số biện pháp giúp trẻ biết tự phục vụ 4 a. Ưu điểm........................... .................................. 4 b. Hạn chế và nguyên nhân......................................... 4 2. Các biện pháp nâng cao chất lượng giúp trẻ tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trong trường mầm non 5 a, Biện pháp 1: 5 - 7 b, Biện pháp 2: 7 - 10 c, Biện pháp 3: 11 - 14 d, Biện pháp 4: 15 - 16 e, Biện pháp 5: 16 - 18 3. Kết quả 18 - 19 4. Kết luận 19 5. Kiến nghị, đề xuất 19 - 20 PHẦN III: MINH CHỨNG HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP 20 PHẦN IV: CAM KẾT 20 PHỤ LỤC 22 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 03 tháng đến 6 tuổi. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục mầm non là hình thành cho trẻ tính tự lập, có những thói quen tốt trong ăn uống, vệ sinh cá nhân để có sức khỏe tốt. Đối với trẻ nhà trẻ là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi việc đều được bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và vận động bằng đôi chân, đôi tay của mình... Tất cả những hành động đó đều làm nên những thói quen, có cả thói quen tốt và thói quen không tốt. Xét về đặc điểm tâm sinh lý, đối với trẻ nhà trẻ bắt đầu ý thức được mình, trẻ nhận ra cái "tôi" như khi xưng hô. Trẻ nhận ra tên gọi của mình là gắn liền với bản thân như một nhân cách. Trẻ đã có khả năng tự mình thực hiện những hành động với đồ vật, có thói quen tự phục vụ trong trường hợp đơn giản ý thức này bộc lộ khi trẻ biết bắt đầu nói đến mình theo ngôi thứ nhất như "con","cháu", "em"... Hoạt động của trẻ hướng tới thế giới bên ngoài và hướng tới bản thân mình, bắt đầu tự nhận thức như trẻ muốn thực hiện các hành động với đồ vật và chú ý sự thay đổi mà trẻ tạo ra, nhờ giao tiếp bằng ngôn ngữ quan hệ của trẻ càng được mở rộng giúp trẻ nhận ra mình là một chủ thể. Trẻ tự tìm hiểu cơ thể mình mang lại cho trẻ những tri thức và kinh nghiệm để hình thành sự tự ý thức. Mong muốn được khen trở thành nhu cầu và cố gắng để đạt được nhờ đó trẻ có thể bỏ tính xấu học tính tốt, khả năng này còn hạn chế, người lớn cần kiên trì, nhắc nhở nhiều lần để trẻ làm xong phần việc được giao. Trẻ được giáo dục tốt luôn muốn trở thành bé ngoan dẫn đến sự phát triển lòng tự trọng làm cho hành vi của trẻ trở nên tốt đẹp. Khi trẻ "tách" mình khỏi người lớn và có ý thức về khả năng chính mình. Người lớn cần tôn trọng tính độc lập của trẻ và biết cách hướng dẫn trẻ tự làm một số việc đơn giản thì trẻ vẫn biết vâng lời mà tính độc lập vẫn phát triển. Nhà trường luôn xác định chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Một trong những mục tiêu giáo dục cơ bản của nhà trường hàng năm là giáo dục cho trẻ làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe nhằm giúp trẻ phát triển tốt về mọi mặt. Nếu trẻ được làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng tích cực, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: thể chất, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần. Từ đó, xây dựng cho trẻ những kỹ năng sớm hòa nhập với môi trường xung quanh. Năm học 2021-2022, tôi được phân công phụ trách nhóm 24 - 36 tháng tuổi. Qua quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ tôi nhận thấy đa số trẻ có sức khỏe tốt. Tuy nhiên, đầu năm học trẻ đến lớp chưa có nề nếp, ra vào lớp tự do, không biết cất đồ dùng ba lô, giày dép, không biết cất, xếp đồ chơi gọn gàng sau khi chơi, không biết tự đi vệ sinh, rụt rè và thụ động trong các hoạt động khác. Chỉ có một vài trẻ tự tin trong trong hành động và giao tiếp với cô và các bạn. Đó là kết quả của việc cha mẹ luôn nghĩ con còn quá nhỏ nên đã tự làm giúp con mọi việc mà không biết mình đã vô tình tước đi cơ hội để con được tự lập. Những đứa trẻ được bao bọc quá kỹ sẽ luôn dựa dẫm, nhút nhát và không biết cách xử lí những vấn đề chẳng may xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Điều này có thể hình thành ở trẻ tính tự ti hay ích kỉ, coi mình là “trung tâm”, từ đó làm hạn chế tính tự lập của trẻ. Xuất phát từ những vấn đề đó, tôi luôn trăn trở và tìm ra “Một số biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường mầm non” để giúp trẻ bước đầu có được kỹ năng tự lập, tự phục vụ không chỉ ở trường mà còn cả ở gia đình và ngoài xã hội. PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1.Thực trạng việc tổ chức hoạt động giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường mầm non Trường Mầm non Đại Lai được thành lập từ năm 1992. Trải qua các giai đoạn xây dựng và trưởng thành từ trường mầm non dân lập, đến ngày 30 tháng 3 năm 2011 được UBND huyện Gia Bình ra Quyết định chuyển đổi thành trường mầm non công lập xã Đại Lai. Từ khi thành lập đến nay trường mầm non Đại Lai luôn giữ vững là đơn vị trường tiên tiến, thành tích năm sau luôn cao hơn năm trước. Trường có 01 điểm trường; điểmTrung tâm nằm trên địa bàn xã Đại Lai có18 nhóm, lớp và 460 học sinh, được chia thành 18 nhóm lớp, nhà trẻ 6 nhóm, mẫu giáo 12 lớp. CSVC tương đối khang trang, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của đổi mới giáo dục hiện nay. - Về đội ngũ quản lý: BGH: 3 đồng chí (1 hiệu trưởng , 2 phó hiệu trưởng) - Về đội ngũ giáo viên: Tổng số năm học 2021-2022 có : 44 giáo viên/ 18 nhóm lớp - Trình độ chuyên môn giáo viên: Năm học Trình độ chuyên môn Đại học Cao đẳng Trung cấp 2021-2022 43 1 0 a.Ưu điểm: Trường Mầm Non Đại Lai là đơn vị trực thuộc Phòng giáo dục và đào tạo huyện Gia Bình quản lý. Trường được thành lập năm 1992. Trường luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo. Đảng, chính quyền từ tỉnh đến địa phương, sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh học sinh nên đã trang bị được nhiều phòng học khang trang, rộng rãi, có đầy đủ đồ dùng, phương tiện và trang thiết bị kịp thời như các đồ dùng, máy tính, ti vi . Để phục vụ cho việc dạy và học của cô và trò trên lớp. Ban giám hiệu nhà trường có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực và năng động trong công tác, luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, luôn tạo điều kiện tốt nhất về mọi mặt để giúp giáo viên phát huy hết năng lực của mình. Mặt khác, phòng giáo dục cũng như nhà trường thường xuyên mở các chuyên đề bồi dưỡng đổi mới hình thức dạy và học tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên được thường xuyên học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn, đội ngũ giáo viên của trường có chuyên môn, sáng tạo trong các hoạt động. Bản thân là giáo viên lớp 24- 36 tháng tuổi, tôi rất yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công tác. Đặc biệt giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng là lĩnh vực mà tôi yêu thích. Đồng thời trẻ đi học đều giúp quá trình học tập và rèn luyện được thường xuyên. b. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế: - Khả năng nhận thức của trẻ là không đồng đều, có một số trẻ còn chưa biết nói, hoặc nói chưa thạo nên sẽ gây khó khăn cho trẻ trong việc thể hiện ý muốn của mình cho cô giáo. Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn yếu, còn rụt rè nhút nhát nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu được trẻ. Bên cạnh đó có những trẻ nghe những không hiểu được các yêu cầu của cô, thích tự làm theo ý mình nên sẽ gây khó khăn cho tôi trong việc rèn các trẻ đó. - Đây là nội dung giáo dục còn khá mới mẻ trong chương trình giáo dục mầm non mới vì vậy có rất ít tài liệu để tham khảo và tìm hiểu. - Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ. - Lớp có 20 trẻ trong khi đó có 10 trẻ mới bắt đầu đi học nên chưa có nề nếp. - Trẻ còn bị ảnh hưởng do cuộc sống hiện đại như: intrenet, tivi, các trò chơi điện tử.....nên trẻ không có hứng thú với các kỹ năng tự phục vụ. - Đa số trẻ được bố mẹ nuông chiều, sống trong bao bọc nên có tính ỷ lại, ích kỷ. Chính vì vậy tôi đã tiến hành khảo sát đầu năm ở lớp 24- 36 tháng tuổi như sau: Bảng tự khảo sát về khả ngăng tự phục vụ ở trẻ: TT Nội dung khảo sát Đạt Chưa đạt Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % 1 Tự cất đồ dùng cá nhân vào tủ 10 50 10 50 2 Tự cất đò dùng đồ chơi đúng nơi quy định 12 60 8 40 3 Tự lấy gối để ngủ 12 60 8 40 4 Tự lấy cốc và uống nước 15 75 5 25 5 Tự xúc cơm ăn 10 50 10 50 2. Biện pháp nâng cao chất lượng giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi biết tự phục vụ , giữ gìn sức khỏe ở trường mầm non Để giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi biết tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe ở trường mầm non tôi đã nghiên cứu tìm tòi qua các tài liệu, sách, báo, internet và tự trau dồi kinh nghiệm cho mình tôi đưa ra 5 biện pháp đã áp dụng thành công tại lớp mình trong năm học 2021-2022 như sau: a, Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch cho trẻ 24- 36 tháng tuổi làm quen với việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe. Ngay từ đầu năm học, căn cứ chương trình Giáo dục mầm non, điều kiện thực tế của trường, lớp và nhận thức của trẻ trong lớp, tôi đã xác định những nội dung cho trẻ làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe và phân bổ vào từng chủ đề từ dễ tới đến khó. Cụ thể như sau: * Tập cho trẻ có tính tự phục vụ: - Tập cho trẻ tự cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định. - Trẻ chào hỏi cô giáo, ông bà bố mẹ khi đến lớp và khi ra về. - Trẻ biết tự đi đến bàn ăn, tự xúc cơm, tự uống nước, ăn xong xếp bát, thìa vào chỗ quy định theo sự hướng dẫn của cô. - Dạy trẻ biết mời người xung quanh ăn cơm, biết yêu cầu (lấy nước, cho thêm canh) một cách lễ phép. - Dạy trẻ nhận biết cốc, tủ đựng đồ cá nhân theo đúng kí hiệu riêng. * Tập cho trẻ một số thói quen tốt về vệ sinh cá nhân và một số công việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe. - Cho trẻ làm quen một số việc tự phục vụ khi đi ngủ như: tự đi vệ sinh trước khi đi ngủ, tự lấy gối và lên giường đi ngủ. - Biết gọi cô khi quần áo bị bẩn, ướt, yêu cầu cha mẹ, cô giáo mặc quần áo ấm, quàng khăn khi trời lạnh, hoặc cởi bớt quần áo khi trời nóng. * Tập cho trẻ làm quen với cách chăm sóc, bảo vệ cơ thể. - Bước đầu cho trẻ làm quen với cách rửa tay, lau mặt vào các thời điểm trước và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi đi ngủ dậy . dưới sự hướng dẫn của cô. - Giáo dục trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh lớp học: giữ gìn đồ chơi sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng, bỏ rác vào nơi quy định; không khạc nhổ bừa bãi ra lớp. Từ việc xác định được nội dung cho trẻ làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe tôi đã lập kế hoạch giáo dục chi tiết, đưa các nội dung cụ thể vào mỗi chủ đề như sau: Chủ đề Kĩ năng Bé và các bạn - Trẻ nhận ký hiệu và cất đồ dùng cá nhân vào tủ. - Cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định. - Chào hỏi cô giáo, bố mẹ ông bà khi đến lớp và khi ra về. Gia đình - Tự đi đến bàn ăn, tự xúc cơm, tự uống nước, tự xếp bát, thìa vào chỗ quy định. - Mời mọi người xung quanh ăn cơm, lễ phép yêu cầu (lấy nước cho thêm canh). - Giữ gìn đồ chơi, sắp xếp gọn gàng, bỏ rác vào nơi quy định; không khạc nhổ bừa bãi. Những con vật đáng yêu - Nhận biết khăn, ca cốc, tủ đựng đồ cá nhân theo đúng kí hiệu riêng của trẻ. - Làm quen một số việc tự phục vụ khi đi ngủ như: tự đi vệ sinh trước khi đi ngủ, tự lấy gối và lên giường đi ngủ. - Gọi cô khi quần áo bị bẩn, ướt, yêu cầu cha mẹ, cô giáo mặc quần áo ấm, quàng khăn khi trời lạnh, hoặc cởi bớt quần áo khi trời nóng. Những chủ đề sau, giáo viên tiếp tục giúp trẻ tập luyện các kỹ năng đã học và hàng ngày thực hành thường xuyên. b, Biện pháp 2. Tạo môi trường giáo dục hấp dẫn, thuận tiện cho trẻ dễ dàng tự thực hiện. Môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học đẹp, sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp là yếu tố trực tiếp tác động đến khả năng tự phục vụ hàng ngày của trẻ. Chính vì vậy xây dựng một môi trường an toàn, thân thiện, ấm cúng, đẹp mắt và phù hợp sẽ dễ dàng thu hút trẻ và được tôi đặc biệt quan tâm. Ngay từ những ngày đầu được giao nhiệm vụ phụ trách lớp. Tôi đã xây dựng kế hoạch trang trí môi trường trong và ngoài lớp xanh, sạch, đẹp. Bố trí các góc đảm bảo hợp lý, an toàn và thuận tiện cho trẻ khi sử dụng. Để có đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị hỗ trợ trẻ tự phục vụ chúng tôi đã mạnh dạn tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường thỏa thuận phụ huynh mua sắm một số đồ dùng cá nhân như: ca, cốc, gối, khăncho trẻ và xin chủ trương vận động phụ huynh ủng hộ thêm một số đồ dùng, các nguyên vật liệu để phục vụ cho hoạt động giáo dục trẻ như: xốp màu, đề can, giấy màu, hồ dán, keo nến để phục vụ cho hoạt động trang trí lớp cũng như làm đồ dùng đồ chơi tại các góc chơi. Từ những nguyên vật liệu đó cùng với việc sưu tầm những hình ảnh đẹp, ngộ nghĩnh, chúng tôi đã trang trí các góc trong và ngoài lớp thu hút sự chú ý của trẻ. Bên cạnh đó, cũng luôn quan tâm đến việc sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng, thuận tiện, trẻ dễ thấy, dễ lấy và dễ cất. Cụ thể: + Khu vực đặt tủ đựng đồ dùng cá nhân của trẻ: Chúng tôi dán tên và hình ảnh ký hiệu của trẻ vào cánh tủ giúp trẻ cất đồ dùng cá nhân vào đúng tủ của mình. Hình ảnh tủ cá nhân của trẻ với ký hiệu cụ thể và gắn quy trình cất túi/ ba lô vào tủ + Các tủ góc trong lớp: được thiết kế bắt mắt, chiều cao tủ vừa tầm mắt trẻ. Các bộ đồ dùng, đồ chơi được giáo viên sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp trên các ngăn tủ. Ví dụ: Ở góc thao tác vai: cô bày các bộ đồ chơi nấu ăn, búp bê trên tủ, bên cạnh bày các bộ bàn, ghế, giường, tủ giúp trẻ lấy đồ chơi dễ dàng. Hay ở góc hoạt động âm nhạc: giáo viên sắp xếp các dụng cụ âm nhạc hợp lý để trẻ lấy và cất đồ dùng dễ dàng cho hoạt động. Hình ảnh tủ đồ chơi được bày trí đẹp mắt, trẻ đang tự lấy, cất đồ chơi. + Khu vực đặt tủ chăn, gối: Gối được giáo viên sắp xếp ở ngăn tủ giữa đảm bảo cho trẻ dễ lấy trước giờ đi ngủ. + Khu vực nhà vệ sinh: Chúng tôi thiết kế các biểu tượng gồm các bước rửa tay theo quy trình có hình ảnh minh họa cụ thể, dễ hiểu dán trên tường gần vòi rửa tay để trẻ có thể nhìn. Ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi cô giáo còn phải hỗ trợ trẻ rửa tay rửa mặt, nhưng khi cô thực hiện cho trẻ cũng giới thiệu các ký hiệu và các bước thực hiện để trẻ bước đầu hình thành thói quen và ghi nhớ. Khăn mặt được ký hiệu bằng những hình ảnh ngộ nghĩnh, gần gũi với sở thích của trẻ như hình mặt cười, hình quả táo, quả cam... để thu hút sự chú ý, kích thích trẻ thích thú tham gia vào thực hiện lao động tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh việc xây dựng môi trường vật chất trong và ngoài lớp thì tôi cũng luôn tìm cách tạo ra cho trẻ một bầu không khí vui tươi, lành mạnh, thoải mái giúp trẻ được vui chơi, khám phá đạt hiệu quả cao nhất. Tạo môi trường giao tiếp thân thiện giữa giáo viên và trẻ, trẻ với trẻ, giáo viên với giáo viên, trẻ với mọi người xung quanh để mang lại xúc cảm, tình cảm và sự tự tin, cảm giác an toàn, thôi thúc trẻ tự hoạt động. Cụ thể: + Quan tâm đến biểu hiện của trẻ để kịp thời phát hiện những cảm xúc vui, buồn, những biểu hiện khác lạ để kịp thời động viên, khích lệ trẻ trong khi trẻ hoạt động. Ví dụ 1: Trong giờ đón trẻ buổi sáng. Tôi luôn ân cần, niềm nở đón trẻ và chú ý tới tâm lý, sức khỏe cũng như những thay đổi của trẻ. Biết trẻ rất thích được khen nên chỉ đơn giản là: Hôm nay con mặc bộ quần áo này xinh quá, hôm nay mẹ đan tóc cho con gái đẹp quácũng giúp cho trẻ có một ngày mới vui vẻ, hứng thú hơn và tự giác cất đồ dùng cá nhân vào tủ. + Cho trẻ tự chọn hoạt động để làm, tự chọn trò chơi để chơi. Cô làm cùng trẻ, chơi cùng trẻ, nghĩ cách nghĩ của trẻ, chơi kiểu chơi của trẻ... tạo cho trẻ cảm giác giáo viên thực sự là một “người bạn nhỏ” của chúng. + Cùng trẻ lưu lại những kết quả trong các hoạt động thông qua sản phẩm, những hình ảnh đáng yêu của giáo viên và trẻ trong các hoạt động. Cuối ngày giáo viên cùng trẻ xem lại, trẻ tự xem, tự nói lên cảm xúc, nhận xét của mình về bức ảnh, về các sản phẩm của mình. Cô khen ngợi để tạo động cơ, thúc đẩy nhu cầu hoạt động của trẻ. c, Biện pháp 3: Lồng ghép một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe vào mọi hoạt động trong ngày. Việc cho trẻ làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe lồng ghép vào mọi hoạt động trong ngày là vô cùng cần thiết. * Thông qua hoạt động đón - trả trẻ. Trong một lần khảo sát tôi đã nhận thấy có 8/20 trẻ luôn muốn làm mọi việc trước khi được giao mà không cần quan tâm tới kết quả như thế nào. Tôi đã đặt ra mục tiêu đầu tiên cần làm là không nóng vội, quát mắng trẻ, mà sẽ kiên trì giúp trẻ, giáo dục trẻ kĩ năng tự phục vụ một cách từ từ nhưng hiệu quả. Ví dụ: Lớp tôi đầu năm có không ít bạn rất tự giác, tới lớp là cất đồ dùng (ba lô, giày dép, khăn mũ) vào tủ ngay cửa lớp mà không cần nhìn xem ngăn nào của mình mặc dù cô đã hướng dẫn một vài lần. Với quan điểm làm gì cũng phải cần thời gian, tôi vui vẻ, kiên trì sửa sai cho trẻ mà không quên chỉ dẫn tận tì “Con ơi, ngăn này có kí hiệu chiếc cốc uống nước là của con nhé, từ mai con nhớ để đồ của mình vào”. Sau một thời gian kiên trì như vậy bây giờ trẻ lớp tôi bạn nào cũng biết nơi cất đồ dùng cho riêng mình và không để đồ nhầm vào ngăn của bạn nữa. Hình ảnh trẻ đi cất balo Trẻ nhỏ thường rất thích bắt chước, làm theo người lớn. Vì vậy mỗi khi trẻ tới lớp tôi thường chào bố mẹ và trẻ trước, bố mẹ thấy vậy cũng chào cô giáo và nhắc con chào. Lâu dần thành nếp, trẻ cũng tiến bộ hơn nhiều. Cứ tới lớp là chào cô chào bố mẹ ngay. Bởi vậy người lớn đóng vai trò rất quan trọng, làm mẫu, làm gương cho trẻ noi theo và duy trì nề nếp tốt giúp cho những nề nếp đó trở thành những kỹ năng cơ bản không thể thiếu. * Thông qua hoạt động học. Đang trên đà thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới với quan điểm: “Lấy trẻ làm trung tâm” hiện nay, thì sự hợp tác giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ là vô cùng quan trọng. Nó giúp trẻ tăng mối quan hệ qua lại, ràng buộc từ đó trẻ có trách nhiệm và chủ động hơn trong công việc của mình. Ví dụ: Trong hoạt động giáo dục âm nhạc. Đã một vài lần thử nghiệm và thấy có một vài bạn không muốn lấy đồ dùng, dụng cụ âm nhạc nhưng vẫn muốn được dùng như các bạn vì bạn cô lấy giúp và tất nhiên đã trở thành một thói quen ỷ lại vào người khác. Vào lúc cần sử dụng dụng cụ âm nhạc, tôi nói rất rõ ràng
File đính kèm:
- bao_cao_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_thang_tuoi_biet_tu_p.docx