Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 5-6 tuổi ở trường mầm non

docx 21 trang Phương Thanh 21/11/2024 300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 5-6 tuổi ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 5-6 tuổi ở trường mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 5-6 tuổi ở trường mầm non
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lại của dân tộc. Việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn bé là vô cùng quan trọng vì giáo dục nhằm định hướng, hình thành, và phát triển một cách toàn diện nhân cách cho trẻ. 
Nói về tầm quan trọng của giáo dục, Bác Hồ từng khẳng định: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế, văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển đất nước. Mục tiêu, động lực của sự phát triển trong tương lai lại chính là thế hệ trẻ. 
Vì thế, thế hệ trẻ luôn được quan tâm hàng đầu trong xã hội. Xã hội càng phát triển thì nó càng thúc đẩy quá trình giao lưu văn hoá. Khi đó, con người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước nói riêng càng cần có phẩm chất đạo đức và nhân cách vững vàng để “chống” lại các tác động bên ngoài như bị dụ dỗ, bị kích động, bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, và lối sống ích kỷ; từ đó nhân cách cũng phát triển một cách lệch lạc. 
Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống con người, nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Bên cạnh những tác động tích cực còn có những tác động tiêu cực gây hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu mỗi người dân trong đó có trẻ em không có những kiến thức cần thiết để lựa chọn những giá trị sống tích cực, không có những năng lực để ứng phó, để vượt qua những thách thức mà hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp trở ngại và rủi ro.
Sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của công nghệ điện tử như hiện nay, chính vì thế mà trẻ hay tiếp xúc với màn hình điện tử và rất ít khi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống. Vì thế việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo “ Con người mới ” với đủ các mặt “ Đức - Trí - Thể - Mỹ ”. Bởi vậy giáo dục mầm non luôn hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện cho trẻ, chuẩn bị những năng lực, phẩm chất và kỹ năng xã hội cần thiết. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã và đang là một nhiệm vụ không thể thiếu trong công tác giáo dục tại các trường mầm non, là vấn đề then chốt, là nền móng để phát huy tối đa hiệu quả giáo dục. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp trẻ tự tin, sống có trách nhiệm và tham gia tốt hơn vào các hoạt động xã hội.
Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng sự vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống của mỗi cá nhân, để sống tích cực, sống hạnh phúc và sống có ý nghĩa. 
Giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp phát triển hài hòa, toàn diện về nhân cách. Ngoài ra nó còn giúp cho trẻ hiểu, biến những kiến thức về kỹ năng sống mà trẻ tiếp nhận được thành những hành động cụ thể như ứng phó với nhiều tình huống, cách giao tiếp, cách ứng xử với mọi người và đặc biệt là cách giải quyết những mâu thuẫn trong các mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực. 
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, con người cần có sự phát triển toàn diện. Vì vậy những năm học gần đây gắn liền với việc thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” trong quá trình tổ chức hoạt động học tập, hoạt động vui chơi, hoạt động ăn ngủ cho trẻ hàng ngày giáo viên luôn để trẻ tự làm chủ các hoạt động. 
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của người lớn, giúp trẻ có những kỹ năng thích ứng với những khó khăn trong cuộc sống cũng như tính tự lập của trẻ. Trẻ biết vận dụng những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Muốn vậy, người lớn phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành. Nhưng trên thực tế, trong xã hội hiện nay các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế nên khó khăn cho trẻ trong việc xử lý tình huống bất ngờ xảy ra.. Một số nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ. Ngoài ra trước sự việc của bé Nguyễn Cao Gia Bảo (SN 2018) ở Bắc Ninh bị kẻ xấu bắt cóc năm 2020, tôi nhận thấy cần phải góp phần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Để khi có tình huống xấu xảy ra với trẻ, các con có một số kỹ năng ứng phó.
Từ những lí do trên, kết hợp với nhiệm vụ cá nhân mà bản thân tôi được nhà trường giao cho trong năm học này là chăm sóc và giáo dục trẻ lớp 5-6 tuổi đã thúc đẩy tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 5-6 tuổi ở trường mầm non”. nhằm hướng đến mục tiêu phát triển, nuôi dưỡng những giá trị sống, làm nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực cho trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên 4 lĩnh vực nền tảng.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 5-6 tuổi ở trường mầm non
a. Thuận lợi
Trường mầm non Đào viên là một ngôi trường nằm ở trung tâm Xã, là trường liên thôn được đầu tư về cơ sở vật chất. Giáo viên đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Ban giám hiệu nhà trường đều là những người năng nổ, có năng lực quản lý và điều hành tốt tất cả mọi công việc.
 	Trường lớp khang trang, sạch đẹp, lớp rộng rãi, thoáng mát, có đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng học tập, vui chơi. 
 	Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên quan tâm, giúp đỡ giáo viên khi gặp khó khăn, vướng mắc về tiết dạy. Luôn bố trí dự giờ chéo nhau, xây dựng những tiết mẫu, những tiết khó thực hiện. Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, cùng nhau trao đổi, bàn bạc, khám phá rút kinh nghiệm tìm ra những biện pháp thực hiện tiết học hay nhất, hiệu quả nhất.
 	Các cháu khoẻ mạnh, tâm lý phát triển bình thường, nhanh nhẹn, hoạt bát, đồng đều các lứa tuổi
 	Bản thân giáo viên yêu nghề, mến trẻ, năng động hay học hỏi tiếp thu những cái mới, làm thêm đồ dùng, đồ chơi sáng tạo, ứng dụng công nghệ thông tin( giáo án điện tử).
 Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lứa tuổi mẫu giáo lớn và có nhiều thời gian tiếp xúc với trẻ nên nắm bắt được tâm sinh lý của trẻ và là một giáo viên tôi luôn tâm huyết với nghề, nhiệt tình, năng động trong mọi công việc. Thực hiện tốt chương trình chăm sóc giáo dục trẻ của Bộ giáo dục và đào tạo.
 	 Đa số trẻ ngoan lễ phép, biết vâng lời và đi học chuyên cần, trẻ mẫu giáo lớn có sự nhận thức cao nên việc dạy trẻ ở một lúa tuổi đều có sự thuận lợi.
b. Khó khăn
- Ngoài những thuận lợi trên thì cũng có rất nhiều những khó khăn. Đào viên là một xã thuần nông, dân cư đông đúc, đa thành phần, hoàn cảnh của người dân đa số là dựa vào nông nghiệp. Vài năm trở lại đây công nghiệp phát triển, đời sống của người dân đang dần được cải thiện. Phụ huynh học sinh chủ yếu là công nhân, họ còn mải làm ăn nên trẻ chưa được quan tâm đúng mức, một số trẻ còn nhút nhát và sự giao tiếp chưa mạnh dạn.
	 - Một số trẻ chưa hứng thú học bài.
	 - Khả năng ngôn ngữ của một số trẻ còn hạn chế, trẻ nói ngọng nhiều.
	 - Chất lượng môn học còn thấp. 
	- Điều kiện phục vụ cho việc dạy và học còn hạn chế, đồ dùng đồ chơi chưa phong phú.
	- Hầu hết giáo viên còn quá phụ thuộc vào phân phối chương trình, không mạnh dạn thay đổi các hình thức, phương pháp, dàn dựng các động tác mới, sợ trái với chương trình đã hướng dẫn là không được.
- Về phía phụ huynh, khái niệm rèn kỹ năng sống cho trẻ có lẽ còn xa lạ và mới mẻ. Họ chưa hiểu mục đích và tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ.
- Một số phụ huynh thờ ơ và bỏ qua những hành động sai của trẻ nên vô tình hình thành thói quen ở trẻ, khiến cho giáo viên rất khó khăn trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.
 - Khả năng nhận thức của trẻ trong lớp không đồng đều, mỗi trẻ có một tính cách, một tâm lý khác nhau, đòi hỏi giáo viên phải áp dụng mỗi trẻ một hướng giáo dục khác nhau tuỳ theo tâm lý của từng đứa trẻ.
- Một số trẻ còn vụng về, lại có cá tính bướng bỉnh, chưa có thói quen nề nếp tốt; rụt rè, thiếu mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến; khi phát biểu nói không rỏ ràng, trả lời cộc lốc, không trọn câu; khi làm sai hoặc có lỗi với người khác ít nói lời xin lỗi, ai cho gì ít cảm ơn, ít thể hiện các kỹ năng của mình; vì thiếu kinh nghiệm nên khi làm việc gì trẻ có ý nghĩ sợ làm sai, sợ mình không làm được, vì thế trẻ không muốn làm cũng như tự tin thể hiện kỹ năng của mình đã có được.
- Bản thân tôi nhận thấy những thuận lợi là cơ bản, khó khăn tuy còn nhiều nhưng đều có thể giải quyết. Vì vậy, trong năm học 2022 - 2023 này, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non”. Giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của những việc hình thành những kỹ năng sống. Quan trọng hơn, giúp trẻ ý thức được việc rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong, thôi thúc trẻ có tinh thần, trách nhiệm ngay từ nhỏ để sau này lớn lên trở thành những công dân có ích cho đất nước, góp phần nhỏ bé của mình vì một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc.
2. Biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 
* Biện pháp 1: Xây dựng nội dung giáo dục kĩ năng sống theo chủ đề.
Để có thể thực hiện tốt “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi”. Tôi đã cải tiến những hạn chế về nội dung giáo dục kĩ năng sống bằng cách: Xây dựng nội dung giáo dục kĩ năng sống theo 10 chủ đề trong năm học. Bám sát vào mục tiêu, kết quả mong đợi theo 5 lĩnh vực phát triển của trẻ 5- 6 tuổi và 100 nội dung đánh giá trẻ để lựa chọn nội dung giáo dục hiệu quả theo 5 nhóm kĩ năng. Các nội dung giáo dục đảm bảo tính phù hợp với trẻ , khả năng của giáo viên, điều kiện thực tế của địa phương và theo nguyên tắc đồng tâm. Cụ thể như sau:
Chủ đề
Nhóm kĩ năng
Tự phục vụ
Tự bảo vệ
Tự tin
Hợp tác
Giao tiếp

Trường Mầm non
Đi vệ sinh đúng nơi quy định. Biết đi xong giật, giội nước cho sạch
 Một số trường hợp không an toàn và gọi người giúp đỡ. Thực hiện quy định của trường, nơi công cộng an toàn.
Nói tên, địa chỉ và mô tả 1 số đặc điểm nổi bật của trường, lớp khi được hỏi, trò chuyện.
Phối hợp với bạn trong nhóm chơi.Đoàn kết trong khi chơi.
Nghe cô, bạn nói. Không ngắt lời người khác. Chờ đến lượt.

Bản thân

Có 1 số hành vi và thói quen trong vệ sinh, phòng bệnh: vệ sinh răng miệng, che miệng khi ho, hắt hơi, không nhổ bậy ra lớp

Nguy cơ mất an toàn: chạy nhảy, leo trèo

Nói được điểm giống và khác của mình với bạn (dáng vẻ bên ngoài, giới tính, sở thích và khả năng)

Chia sẻ, giúp đỡ bạn trong nhóm chơi

Biểu lộ cảm cảm xúc (vui, buồn, sợ hãi, tức giận, ngạc nhiên, xấu hổ)

Gia đình
Sử dụng đồ dùng phục vụ ăn uống thành thạo
Tránh xa 1 số đồ dùng gây mất an toàn: gas, ổ điện, phích nước
- Nói được họ tên, tuổi, giới tính của bản thân; tên bố, mẹ, địa chỉ nhà hoặc điện thoại
Yêu mến, quan tâm đến người thân trong gia đình
Sử dụng được các từ: “Cảm ơn”, “xin lỗi”,“thưa”, “dạ”,“vâng” phù hợp với tình huống

Nghề nghiệp
Lấy cất đồ dùng đúng nơi quy định
Không tự ý sử dụng 1 số đồ dùng gây nguy hiểm ( liềm, cuốc, đinh)
Kể rõ ràng, có trình tự về sự việc, hiện tượng nào đó để người nghe có thể hiểu được
Biết vâng lời, giúp đỡ bố mẹ, cô giáo những việc vừa sức
Hiểu và sử dụng các từ khái quát, từ trái nghĩa, câu đơn, câu mở rộng, câu phức

Thế giới động vật

Tự thay quần áo khi bị ướt, bẩn và để vào nơi qui định

Cách phòng tránh 1 số con vật hung dữ

Giới thiệu về con vật quanh bé

Tìm cách để giải quyết mâu thuẫn (dùng lời, nhờ sự can thiệp của người khác, chấp nhận nhường nhịn)

Phát âm được các tiếng có phụ âm đầu, phụ âm cuối gần giống nhau và các thanh điệu

Tết Mùa xuân
Có một số hành vi, thói quen trong ăn uống: Không đùa nghịch, không làm đổ vãi thức ăn
Nhờ sự giúp đỡ của người lớn khi bị lạc.
Chúc tết. nói lời cảm ơn khi được mừng tuổi
Lắng nghe ý kiến trao đổi, thỏa thuận, chia sẻ kinh nghiệm với bạn
Dùng được câu đơn, câu ghép, câu khẳng định, câu phủ định, câu mệnh lệnh
Thế giới thực vật
Tự cài, cởi cúc, xâu dây giày, cài quai dép, kéo khóa (phéc mơ tuya)
Kí hiệu thông thường:Nơi nguy hiểm, lối ra- vào, cấm lửa
Kể về những loài hoa, rau, cây ăn quả bé biết
Cùng bạn trồng, chăm sóc hoa, cây cảnh, bảo vệ môi trường
Thể hiện sắc thái tình cảm khi đọc thơ, đồng dao

Giao thông

Gấp chăn, xếp gối gọn gàng

Những đồ vật, những nơi không an toàn; nguy cơ không an toàn khi ăn uống và phòng tránh

Giúp đỡ bạn, người khác khi gặp khó khăn

Chia sẻ đồ chơi, cùng bạn tạo ra sản phẩm

Chào hỏi lễ phép. Giao tiếp tự tin với người đối diện
Nước-HTTN
Rót nước vừa phải để uống, khóa vòi nước khi không xử dụng
Bé không chơi gần ao hồ
An toàn khi trời mưa to, sấm chớp
An ủi, chia vui với người thân, bạn bè
Nghe-hiểu và đưa ra ý kiến cá nhân sử lí các tình huống.

 Quê hương- đất nước- Bác Hồ- Trường tiểu học
Chải đầu, buộc tóc gọn gàng. Mặc trang phục phù hợp thời tiết
Không tự ý nhận quà, đi theo người lạ
Tham gia biểu diễn, giao lưu văn nghệ
Giao lưu các trò chơi tập thể.
Giới thiệu cảnh đẹp của quê hương, danh lam thắng cảnh của đất nước

=>Với nội dung giáo dục rõ ràng theo từng chủ đề, tôi chủ động hơn trong việc xác định mục tiêu, xây dựng môi trường giáo dục, lựa chọn đề tài giáo dục cụ thể, chủ động lồng ghép, thực hiện các nội dung giáo dục kĩ năng sống mọi lúc, mọi nơi 1 cách linh hoạt. Cuối chủ đề các nội dung giáo dục kĩ năng sống đều được đánh giá về mức độ thực hiện, kết quả đạt được theo 5 nhóm kĩ năng và những điểm cần lưu ý để thực hiện tốt hơn trong chủ đề sau.
* Biện pháp 2: Lựa chọn đồ dùng, phương tiện giáo dục phù hợp từng nhóm kĩ năng sống
  Biện pháp này tôi thực hiện nhằm lựa chọn đồ dùng trực quan, phương tiện giáo dục hỗ trợ phù hợp nhất, phát huy tối đa hiệu quả giáo dục từng nhóm kĩ năng sống. Đảm bảo mỗi nội dung giáo dục kĩ năng sống có hướng khai thác riêng luôn mới lạ với trẻ. Bởi hứng thú là yếu tố quan trọng quyết định nên thành công trong các nội dung giáo dục của trẻ mầm non. Sau đây là 1 số minh chứng tôi đã khai thác sử dụng loại đồ dùng, phương tiện phù hợp giáo dục hiệu quả đến các nhóm kĩ năng sống:
    Sử dụng tranh ảnh, vật thật: Tôi xác định được nhóm kĩ năng tự bảo vệ là nhóm kĩ năng trừu tượng thường được mô phỏng lại qua tranh ảnh, vật thật. Nên tôi đã lựa chọn ra những mối nguy hiểm thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày đối với trẻ để giúp trẻ được mô phỏng qua tranh ảnh và 1 số đồ dùng trực quan nhằm giúp trẻ nhận biết và có những hành động đúng với những trường hợp nguy hiểm đang xảy ra như: ổ điện, quạt điện, bếp ga, phích nước nóng, bàn là, những vật sắc nhọn( kéo, bút chì). Tôi cho trẻ kể tên về những đồ dùng trong gia đình nhà mình, sau đó cho trẻ xem tranh về những đồ dùng đó, hỏi trẻ xem những đồ dùng này các con có được sử dụng không? Vì sao?
Sử dụng các tình huống: Các tình huống có vần đề là phương tiện để sau mỗi ý kiến, cách giải quyết trẻ sẽ nhận ra cách tự bảo vệ bản thân được an toàn. Trong cuộc sống hàng ngày, tôi dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất trắc mà trẻ có thể gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở giúp trẻ tìm ra cách giải quyết, không áp đặt, cấm đoán trẻ. Nhằm giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân, trẻ có khả năng biết từ chối, xử lý những tình huống khi thấy không an toàn. Tôi tự đặt ra một số tình huống để trẻ tự giải quyết vấn đề, và những tình huống khác, có liên quan cũng được áp dụng trong suốt quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Ví dụ: Cô kể cho trẻ nghe câu chuyện: Bạn A được mẹ hứa đón về sớm, nhưng mẹ bận họp đột xuất, chờ mãi mà không thấy mẹ. A đi ra cổng để đón mẹ, bỗng có một người phụ nữ cho bạn A kẹo và nói “Hôm nay mẹ bận không đón con được, mẹ nhờ cô đón con về, con ngoan ăn kẹo đi rồi lên xe cô chở con về”. Giáo viên dừng lại và hỏi trẻ: bạn A có về với người phụ nữ đó không? Nếu con là bạn A con sẽ xử trí như thế nào? Cho trẻ thảo luận và đưa ra cách xử lí tình huống
  Sử dụng video, các bộ phim rèn kĩ năng sống, thông tin thời sự để giáo dục kĩ năng bảo vệ, kĩ năng hợp tác:
  Sử dụng đa dạng yếu tố trò chơi: Nếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức trẻ dễ nhàm chán, mau quên. Trẻ chơi mà học sẽ khắc sâu kiến thức cô cung cấp. Trò chơi là hoạt động hiệu quả giúp giáo dục, củng cố được các nhóm các nhóm kĩ năng sống cơ bản.
  VD:Với các trò chơi học tập như: “ai thông minh hơn”, “thi xem đội nào nhanh”, “Loại bỏ những đồ dùng gây nguy hiểm cho trẻ”, hay trò chơi với tranh vẽ “ Hãy gạch chéo vào đồ dùng mà bé không được sử dụng”Trẻ sẽ rất tích cực tham gia để củng cố kĩ năng cơ bản tự phục vụ, hành vi đúng sai tự bảo vệ...Các trò chơi học tập củng cố hiệu quả nhóm kĩ năng tự phục vụ và nhóm kĩ năng tự bảo vệ. 
 Với các trò chơi vận động, như: Kéo co, rồng rắn lên mây, chèo thuyềncác trò chơi có luật tiếp sức thể hiện tinh thần đồng đội giúp đỡ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ phát huy vai trò của từng cá nhân trong nhóm đến kết quả của cả đội, phải có sự hợp tác của tất cả các thành viên trong nhóm để cả nhóm hoàn thành nhiệm vụ nhanh nhất, hiệu quả nhất. Các trò chơi vận động này rèn luyện hiệu quả nhóm kĩ năng hợp tác
    => Giải pháp này giúp tôi lựa chọn đồ dùng, phương pháp giáo dục phù hợp tránh lãng phí, nhàm chán mà đem lại hiệu quả cao trong việc rèn luyện từng nhóm kĩ năng sống. Tôi nhận thấy trẻ lớp tôi tăng khả năng hứng thú,  tích cực khám phá, trải nghiệm hoạt động mà tôi muốn chuyển tải đến trẻ. Đặc biệt, trong từng nội dung tôi tổ chức, do tính phù hợp  cao nên trẻ tiếp thu nhanh, đạt mục tiêu mà tôi đưa ra.
 * Biện pháp 3: Giáo dục kĩ năng sống trong các thời điểm t

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giao_duc_ky_nang_song.docx