Mô tả sáng kiến - Giải pháp “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhanh quen với trường lớp và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ phát triển tình cảm kỹ năng xã hội”

doc 17 trang Hải Châu 22/10/2025 50
Bạn đang xem tài liệu "Mô tả sáng kiến - Giải pháp “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhanh quen với trường lớp và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ phát triển tình cảm kỹ năng xã hội”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô tả sáng kiến - Giải pháp “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhanh quen với trường lớp và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ phát triển tình cảm kỹ năng xã hội”

Mô tả sáng kiến - Giải pháp “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhanh quen với trường lớp và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ phát triển tình cảm kỹ năng xã hội”
 BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
 I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN:
 1. Tên sáng kiến: Giải pháp “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng nhanh 
quen với trường lớp và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ phát triển tình cảm kỹ năng 
xã hội”
 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy (lĩnh vực TC-KNXH).
 3.Tác giả:
 Họ và tên: Phạm Thị Khánh Vân
 Ngày/tháng/năm sinh: 24/08/1982
 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường mầm non Đại Bản.
 Điện thoại: 0782086616
 4. Đồng tác giả:
 Họ và tên: Lại Thị Thúy
 Ngày/tháng/năm sinh: 1976
 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường mầm non Đại Bản.
 Điện thoại: 0948752958
 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
 Tên đơn vị: Trường mầm non Đại Bản
 Địa chỉ: Thôn Tân Thanh - xã Đại Bản - An Dương - Hải Phòng.
 Điện thoại: 02253618787
 Mô tả giải pháp đã biết
 - Đối với trẻ độ tuổi 24 - 36 tháng thì việc đến lớp hàng ngày chưa trở thành 
 thói quen. Trường mầm non chính là nơi đầu tiên trẻ tiếp xúc giúp trẻ hình thành 
 những phản xạ và những hiểu biết sơ khai về cuộc sống xung quanh. Những năm 
 đầu đời đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát 
 triển nhận thức cho trẻ tạo tiền đề cho trẻ đến những bậc học tiếp theo. Những ngày 
 đầu tiên khi trẻ dời xa vòng tay của bố mẹ đến với môi trường mới lạ đối với trẻ là 
 những ngày khó khăn và khủng hoảng. Có những trẻ khóc lóc vật vã, có những bé 
 chỉ cần đưa vào đến cổng trường là đã la hét cũng có những bé bị ốm và sợ không 
 dám đi học. Có những bạn đi học thì bị ốm bị nôn ói không tiếp xúc với ai không 
 tham gia một hoạt động gì ở trong lớp. Có những bé được bố mẹ hứa đi mua quà 
 nhưng không mua mà chở thẳng vào lớp , bố mẹ không trao đổi với cô, trẻ cứ khóc 
 và cô không biết lí do nên không dỗ được trẻ làm cô rất hoang mang. Những yếu tố 
 này rất ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lí của trẻ. Là một giáo viên đứng lớp 
 tôi rất trăn trở suy nghĩ khong biết là cách nào để giúp các bé hòa nhập được với 
 trường lớp và các bạn và ham đến trường. Vậy câu hỏi đặt ra cho một giáo viên 
 1 đứng lớp như tôi là làm thế nào để giúp trẻ 24 - 36 tháng nhanh quen với trường lớp 
 và ham thích đến lớp. 
 - Thực tế tại các trường mầm non giáo viên cũng đã có những giải pháp giúp 
trẻ nhanh quen với trường lớp và ham thích đến lớp như sau:
 Giải pháp 1: làm thế nào để giúp trẻ lứa tuổi nhà trẻ ham thích đến lớp 
(Nguyễn Thị Hồng Liên - giáo viên trường mầm non Đại Đồng, huyện Đại Lộc).
 - Ở giải pháp này tác giả chủ yếu đi sâu vào phân tích tâm lý trẻ khi lần đầu trẻ 
đi học và đưa ra những lời khuyên dành cho phụ huynh. 
 Ưu điểm: Giải pháp này tác giả phân tích lý do vì sao trẻ lại sợ đến trường 
mang lại cho phụ huynh sự hiểu biết về tâm lý của trẻ khi lần đầu trẻ đến trường và 
đưa ra một số gợi ý phụ huynh cần làm gì để giúp trẻ ham thích đến trường lớp. 
 Nhược điểm: Ở lứa tuổi nhà trẻ, trẻ đã có thể đi học ở trường mầm non. Đây 
chính là trường học đầu tiên trong đời trẻ nên những dấu ấn về trường học, về cô 
giáo, bạn bè trong giai đoạn này rất quan trọng bởi đó là ấn tượng sâu sắc ghim vào 
trong tâm trí của trẻ . Nhiều gia đình thường có xu hướng dạy con bằng lời lẽ dọa 
nạt, la mắng, hễ con sai hay vì điều gì đó mà không vừa ý bố mẹ sẽ bị mắng ngay 
tức khắc, thậm chí trong lúc nóng giận cha mẹ còn vung tay đánh con. Chính điều 
này sẽ làm cho đứa trẻ hoảng sợ, hoảng hốt và có cảm giác xa cách với bố mẹ. Việc 
to tiếng cũng làm cho trẻ ám ảnh về sau, sẽ sợ hãi mỗi lần nghe tiếng cãi vã, tiếng 
nói to ở đâu đó. Vậy thì với một đứa trẻ cứ trong trạng thái sợ hãi, lo lắng vì sợ bị 
mắng, bị đánh thì khi bắt đầu vào môi trường mới sẽ như thế nào? Nỗi sợ ấy lại dấy 
lên và điều hiển nhiên là trẻ sẽ sợ đến trường. Ở giải pháp này tác giả chỉ đưa ra các 
biện pháp nhắm giúp phụ huynh giúp trẻ thích đến trường. 
 Giải pháp 2: Bí quyết giúp trẻ thích cô, hết khóc khi đến lớp mầm non. 
(Bùi Thị Hợp – Giáo viên trường mầm non Văn Hiến, quận Tây Hồ , Hà Nội) 
 - Ở đề tài này giáo viên lựa chọn hoạt động học tập để lồng ghép giáo dục trẻ 
làm quen với các hoạt động của trường lớp tạo hứng thú cho trẻ thích đến trường để 
giúp trẻ.
 * Ưu điểm: Thông qua các giờ học giáo viên lồng ghép một cách nhẹ nhàng 
giúp trẻ tiếp nhận kiến thức phù hợp với lứa tuổi có hệ thống và không quá sức, trẻ 
được khơi dậy lòng hứng thú, phấn khởi lôi cuốn trẻ vào các hoạt động từ đó hình 
thành ở trẻ tình cảm, ý thức, thói quen đến trường.
 Nhược điểm: Ở độ tuổi này trẻ mới đi học chưa quen trường lớp những ngày 
đầu tiên đến trường với trẻ rất khó khăn trẻ luôn nhớ bố mẹ nhưng cô đã đưa trẻ vào 
giờ học ngay thì hiệu quả của giờ học sẽ không cao mà còn tạo cho trẻ tâm lý lo sợ. 
Giải pháp mới chỉ chú ý đến dạy trẻ tạo hứng thú cho trẻ thông qua giờ học để trẻ 
được tham gia hoạt động từ đó làm cho trẻ ham thích đến lớp. Nhưng tác giả chưa 
 2 chú ý đến việc cô cần gần gũi tạo tâm thế thoải mái tin tưởng cho trẻ để trẻ có cảm 
giác cô giáo là người thân trẻ sẽ cởi mở hơn với cô. Và vấn đề tạo không gian môi 
trường thu hút sự chú ý trẻ chưa được tác giả quan tâm.
 Giải pháp khắc phục: Khơi gợi sự ham thích đến lớp và nhanh quen vopwis 
trường lớp cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng cần được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi bằng 
các hình thức như giờ đón trả trẻ, lồng ghép vào các giờ học, hoạt động ngoài trời, 
hoạt động vui chơi, tuyên truyền, trò chơi, tạo môi trường gây hứng thú, Vì vậy, 
việc chỉ tạo hứng thú cho trẻ trong tiết học là chưa đủ.
 Bình luận: Một lớp có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Sự 
khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, xu hướng, hứng thú. Vì tất cả trẻ 
đều có quyền được quan tâm đáp ứng nhu cầu bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo 
dục cũng thấy rằng về bản chất phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất 
nhiều những gì chúng thể hiện ở lớp. Khi trẻ đến lớp mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất 
do đó trẻ sẽ thể hiện theo cách của trẻ. Chính vì vậy cô giáo cần tạo tâm lý tốt cho 
trẻ khi ở lớp. Xuất phát từ tâm lý trẻ nhà trẻ vừa sống trong môi trường gia đình, 
bước đầu trẻ phải đi học được tiếp xúc với nhiều người trong xã hội. Trẻ nhà trẻ là 
độ tuổi còn non nớt khóc nhiều vì xa cha mẹ chư quen cô quen bạn, chưa thích nghi 
với các hoạt động ở lớp. Việc tạo ham thích cho trẻ khi đến trường, đến lớp là vấn 
đề rất quan trọng. Trẻ hứng thú đi học sẽ tạo cho phụ huynh có tâm lý thoải mái, yên 
tâm giao con cho cô giáo, trẻ sẽ hòa đồng nhanh với môi trường tập thể tham gia 
tích cực vào các hoạt động của lớp.
 II. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến
 1. Nội dung giải pháp mà tác giả đề xuất:
 1.1. Tên giải pháp đề xuất: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng nhanh 
quen với trường lớp và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ phát triển tình cảm kỹ năng 
xã hội”
 1.2. Mục đích: Tìm ra giải pháp giúp trẻ nhà trẻ nhanh quen với trường lớp và 
ham thích đến lớp.
 1.3 Vai trò của việc trẻ nhanh quen với trường lớp và ham thích đến lớp:
 Việc giúp trẻ sớm thích nghi với trường lớp, với các cô là một vấn đề vô cùng 
quan trọng. Mỗi năm đối tượng các trẻ khác nhau và cách làm quen với trẻ cũng 
phải khác nhau. Phụ huynh thì thường hay so sánh giữa lớp nhỏ và lớp lớn, giữa 
cháu cũ với cháu mới và lo lắng không biết cô đối xử với các con có tốt không? Làm 
sao để trẻ sớm thích nghi với trường lớp mầm non? Vấn đề giúp trẻ sớm hoà nhập 
vào môi trường mới là việc rất quan trọng bởi khi đến lớp nếu trẻ ngoan hứng thú thì 
mọi hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ cô truyền đạt thì trẻ mói lĩnh hội và phát triển tốt 
cả về thể chất lẫn tinh thần khi tới trường mầm non.
 3 2. Nội dung giải pháp đề xuất: 
 Biện pháp 1: Cô giáo luôn là người bạn đáng tin cậy của trẻ:
 - Trong giờ đón trả trẻ việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn giúp 
cho giáo viên nhìn nhận chính xác được tình hình thực tiễn lớp mình từ đó đưa ra 
các hoạt động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ. Trò chuyện với phụ huynh về trẻ để 
biết bé thích ăn những gì không thích ăn gì và thói quen ngủ ở nhà như thế nào. 
những ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy của trẻ. Khi 
được ba mẹ đưa đến lớp những ngày đầu tiên trẻ thường ôm chặt lấy ba mẹ không 
muốn rời xa và liên tục nhìn xung quanh để dò xét. Nếu lúc đó cô giáo đến ôm chầm 
lấy trẻ và tách trẻ ra khỏi tay ba mẹ trẻ thì chắc chắn rằng kể từ cái nhìn đầu tiên trẻ 
sẽ rất ghét và rất sợ cô, sợ đi học. chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ tôi chỉ 
chào hỏi cười và làm quen với trẻ bằng những câu thật đơn giản: “Cô chào con. Con 
tên là gì? Con có muốn vào chơi cùng cô và các bạn không?” Đa số trẻ trong thời 
điểm này chỉ ngồi trong lòng mẹ và quan sát im lặng không thích nói chuyện. Đối 
với những trẻ không chịu hòa nhập như vậy cô nên trò chuyện thật nhiều cùng phụ 
huynh và từ từ vuốt ve trẻ, kế đến là nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng đem đồ chơi đến chỗ 
trẻ cho trẻ chơi nhằm gây sự chú ý cho trẻ và quan sát các biểu hiện của trẻ. Nếu trẻ 
vẫn chỉ ngồi trong lòng mẹ mà chưa hòa nhập chơi cùng các bạn tôi vẫn tiếp tục trò 
chuyện cùng phụ huynhcho đến khi trẻ cảm thấy sự gần gũi giữa ba mẹ và cô giáo từ 
đó trẻ sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp. Và để trẻ không có cảm giác bị ba mẹ bỏ 
rơi, gây ra tâm lý hoang mang lo sợ cho trẻ tôi không quên trao đổi rằng phụ huynh 
nên đón trẻ sớm vào những ngày đầu đến lớp.
 Biện pháp 2: Tạo ra môi trường đẹp, chuẩn bị nhiều đồ dùng đồ chơi hấp 
dẫn thu hút sự chú ý của trẻ.
 Môi trường nhóm lớp là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của trẻ. Lớp 
tôi có không gian rộng rãi thoáng mát, có đầy đủ đồ dùng cá nhân cho trẻ, các góc 
chơi đẹp, phong phú. Trong những ngày đầu bé mới đến trường, tôi nghĩ trường lớp 
phải thật đẹp, thật hấp dẫn và thu hút trẻ. Để có được điều đó cần có bàn tay của cô 
giáo. Vì vậy để chuẩn bị đón trẻ, tôi cùng đồng nghiệp trong lớp sắp xếp các góc 
chơi với đầy đủ các loại đồ chơi khác nhau. Tôi luôn tạo môi trường đảm bảo, sạch 
sẽ, an toàn tuyệt đối cho trẻ, nhất là trẻ nhà trẻ để tạo cảm giác an toàn, trẻ được yêu 
thương như chính ở trong gia đình của mình.Trưng bày nhiều đồ chơi hấp dẫn do 
nhà trường mua sắm phục vụ cho các cháu. Nhất là các loại đồ chơi chuyển động 
(cầu trượt, xích đu, bập bênh, xe ô tô, máy bay nhiều loại ), tạo ra âm thanh (như 
con chút chit, kèn, xúc xắc ) đồ chơi phát triển trí tuệ (đồ chơi lắp ghép, xếp 
hình ) và một số thú bông, búp bê, các loại bóng. Đồ chơi phải đủ để mỗi cháu có 
ít nhất một món, không tranh dành nhau. Ngoài ra tôi còn tận dụng thời gian của 
 4 mình để làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật liệu phế thải tạo ra nhiều 
đồ chơi đẹp, hấp dẫn, phù hợp và tuyệt đối an toàn với trẻ nhà trẻ những con vật 
ngộ nghĩnh, xe đun xe đẩy, cây hoa quả, xâu vòng để kích thích trẻ chú ý và thích 
chơi. Các trò chơi góc giúp trẻ vui vẻ hòa nhập với môi trường lớp học.
 Ngoài ra tôi còn tận dụng môi trường thiên nhiên chơi ngoài sân trường để 
cho trẻ nhanh thích nghi và tạo sự ham thích đến lớp cho trẻ. Được lợi thế là có một 
sân trường rộng để các cháu chơi đùa, đi dạo Mỗi năm học được cải tạo và sắp xếp 
lại, trang bị thêm nhiều cây xanh . tạo được một sân chơi thoáng mát, sạch, đẹp 
thu hút sự hứng thú của trẻ và phụ huynh. Đầu năm tôi sợ cháu khóc thường cho các 
cháu ở trong lớp, đóng cửa lại không cho các cháu ra chơi ngoài sân vì sợ các cháu 
gặp người quen hay gặp người lớn trẻ sẽ rất dễ khóc. Nhưng tôi thiết nghĩ : Tuy 
phòng, lớp tôi cũng khá rộng rãi nhưng có thể các cháu vẫn cảm thấy bị ức chế và 
nỗi sợ hãi càng tăng. Tại sao mình không cho các bé ra sân trường đi dạo dưới 
những tán cây để hít thở không khí trong lành? Chính không khí này sẽ giúp bé 
thoải mái, tâm lý vui vẻ. Khi được ra sân các cháu thơ thẩn đi theo tôi ngắm nhìn 
xung quanh hoặc chạy nhảy vui đùa. Đối với những cháu còn lạ, ngơ ngác và khóc 
thì tôi thường dẫn cháu đi bên cạnh, vỗ về âu yếm vuốt ve để các cháu cảm thấy bớt 
cô đơn. Dần dần các cháu bị tiếng nói, tiếng hát, đọc thơ và kể chuyện của tôi thu 
hút. Các cháu không khóc nữa mà hòa cùng vào các bạn tham gia các trò chơi “Thổi 
bóng” “Bắt bướm” thậm chí “quên” cả mẹ đang đi ở phía sau. Ngoài việc tạo 
được không gian thoáng đãng, khi ra ngoài trời, các con có thể thỏa sức khám phá 
thiên nhiên. Thỏa mãn trí tò mò của trẻ về một môi trường mới đầy thú vị. 
 Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động hấp dẫn thu hút trẻ:
 Khi trẻ đến lớp, tới 1 môi trường lạ lẫm. Trẻ rất cần sự quan tâm, đặc biệt là trẻ 
ở lứa tuổi nhà trẻ, còn rất non nớt. Cô cần tạo cho trẻ sự gần gũi, ấm áp giống như 
một người mẹ, tạo không khí lớp học giống như trong gia đình. Do đó, tôi thiết nghĩ, 
cần có những hoạt động để giúp các cô và các con gần nhau hơn, đồng thời qua đó 
cũng cung cấp kiến thức và giáo dục cho các con kĩ năng sống phù hợp. 
 Trong các hoạt động với những đồ cùng trực quan sinh độngcô giáo giúp trẻ 
quan sát và đàm thoại nhằm khơi gợi hứng thú, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết 
của trẻ, đồng thời cung cấp kiến thức cho trẻ về sự vật xung quanh trẻ.
 Tham gia các hoạt động trẻ được vui chơi và khám phá rất nhiều điều. Bên 
cạnh đó, những tình huống trẻ cần sự giúp đỡ, chăm sóc của cô cũng sẽ giúp cô tạo 
được lòng tin và sự an tâm từ trẻ. 
 Ngoài ra, còn rất nhiều các hoạt động khác mà tôi đã tổ chức cho các con như: 
tổ chức ngày hội đến trường của bé, tết Trung Thu... Giúp các con cảm thấy vui 
thích khi được vui chơi được nhận quà được sự quan tâm của cô giáo.
 5 Và còn rất nhiều những hoạt động rất thú vị mà các con đã được tham gia. Qua 
đó, các con không những cảm thấy vui vẻ, hào hứng mà tôi nghĩ trẻ đã cảm nhận 
được sự yêu thương của các cô dành cho các con. 
 Và với biện pháp này, trẻ ở lớp tôi đã có những kết quả rất tích cực. Trẻ rất vui 
vẻ khi tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn. Như tôi đã nói, tâm lý trẻ rất nhạy 
cảm, tò mò ham hiểu biết. Nên mọi thứ mới lạ đều hấp dẫn, thu hút trẻ. Từ đó tạo 
tâm lí phấn khởi, hào hứng cho trẻ trong mỗi ngày đến lớp. Cảm giác lạ lẫm ban đầu 
sẽ mau chóng quên đi.
 Biện pháp 4: Tập cho trẻ những thói quen bắt đầu từ những thói quen cũ.
 - Vì lần đầu đến lớp trẻ còn nhiều bỡ ngỡ xa lạ thế nên cô giáo có thể chấp 
nhận những thói quen chưa tốt của trẻ như; ôm ba lô bên mình, ít ăn cơm, không 
thích ăn rau, giờ ngủ thích nằm một mình không nằm cùng các bạn... Nếu trẻ chưa 
quen mà đã khuyên trẻ nên như này không nên như kia thì mọi cố gắng chiều 
chuộng trẻ từ lúc đầu đến giờ sẽ trẻ lên vô nghĩa. Hãy cứ từ từ đừng bắt buộc trẻ mà 
hãy tập dần dần cho trẻ cho đến khi trẻ quen thì cô có thể đưa trẻ vào nề nếp ăn ngủ 
vệ sinh. Trong giờ ăn cô cũng nên khuyến khích trẻ ăn hết xuất cơm tạo bầu không 
khí vui vẻ. nếu trẻ không chịu ăn cô cũng đừng vội ép trẻ. nếu trẻ chưa quen thức ăn 
ở trường muốn ói cô nên cho trẻ dừng ăn. Vì nếu để trẻ bị ói trẻ sẽ có cảm giác sợ 
thức ăn và sẽ khó quen với những bữa ăn ở trường.
 Biện pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh:
 Trẻ ở lớp tôi thì đa phần toàn là cháu mới đi học lần đầu. Đối với các cháu đã 
đi học, ngay từ ngày đầu nhận danh sách lớp tôi thường trao đổi ngay bố mẹ của trẻ 
để tôi có thể nắm được ngay thói quen, đặc điểm sinh lý, sức khỏe của trẻ để có biện 
pháp tác động phù hợp. Những ngày đầu mới đi học thường có các ông bà hoặc bố 
mẹ đi theo, lúc đó trao đổi với phụ huynh về tính cách của trẻ xong tôi tổ chức cho 
trẻ chơi những trò chơi dân gian, hát dân ca . Khi trẻ bắt đầu bị tôi thu hút thì tôi sẽ 
làm quen, trò chuyện với trẻ trong vai trò “cô giáo”. 
- Ngoài ra tôi cũng trao đổi với phụ huynh về nội quy của nhóm lớp như: Phụ 
huynh nên cho bé đi học đều, đúng giờ, đồng thời đề nghị phụ huynh kết hợp với Cô 
trong việc rèn nề nếp và thói quen lễ phép. Cô và bố mẹ phải là tấm gương cho trẻ 
noi theo. Ví dụ:
 - Cô hướng dẫn trẻ cất đồ chơi vào nơi quy định, phụ huynh đặt trước và giúp 
trẻ đặt đồ dùng của bé.
 - Khi trẻ đến lớp tôi khoanh tay và nói cô chào con và nhắc trẻ chào lại tôi khi 
đó phụ huynh cũng nhắc con của mình khoanh tay và chào cô đi nào cứ như vậy trẻ 
sẽ nhìn và bắt chước theo.
 6 - Hay những lúc sinh hoạt tập thể ngồi vòng tròn.Trẻ ngồi cùng tôi chơi trò 
“Đoán tên”. Tôi cùng giúp bé nói tên của mình.
 - Khi trẻ chơi xong, tôi cùng bé cất dọn đồ chơi vào các góc.
 - Khi tôi đưa một món đồ chơi mà trẻ thích, tôi thường nói: “ Cô cho con này”, 
trẻ nhìn tôi với ánh mắt dò xét và được mẹ tiếp thêm: “ Ồ! Con cảm ơn Cô đi, Cô 
yêu con mà!” những lời của mẹ và hành động của Cô đã làm cho bé hết sức an tâm và 
cảm thấy thoải mái tinh thần trong những ngày đầu bé mới đến trường. 
 Tôi thường trao đổi với phụ huynh về cách rửa tay theo quy trình 6 bước theo 
quy cách mà tôi coi đó là biện pháp tốt nhất chăm sóc cho bé.
 - Trong quá trình trẻ rửa nhất là với cháu mới ở độ tuổi 24-36 tháng thì cô phải 
là người rửa tay cho trẻ, không nên dồn ép la mắng trẻ, trẻ dễ bị kích động. Cần tạo 
không khí vui vẻ cho trẻ, đừng vô tình để trẻ sợ.
 Sau 1 thời gian áp dụng phương pháp này , kết quả mà tôi thu được đó là 
cháu đã quen dần môi trường Mầm Non, cô ra hiệu lệnh “Gõ xắc xô” là trẻ đã biết 
cần làm những gì. Tôi không nóng vội mà ép cháu làm được ngay 1, 2 tuần đầu làm 
cho bé sợ và thấy cô giáo là một điều sợ hãi, đây là điều dễ xảy ra trong thời gian 
mới vào trường. 
 3. Tính mới, tính sáng tạo:
 + Tính mới: Trước khi tác giả đề xuất giải pháp thì mới chỉ có:
 - Nghiên cứu về thực trạng: Trước khi thực hiện giải pháp tôi đã quan sát trẻ 
trong lớp mình phụ trách tôi thấy đa số trẻ đi học còn khóc nhè không chịu vào lớp, 
cô bế không chịu, các cô phải dỗ dành co kéo với trẻ. Đến giờ ăn trẻ khóc không 
chịu ngồi ăn, ho, nôn ói đến giờ ngủ cô phải ẵm bế ru ngủ, có trẻ không chịu ngủ cô 
phải bế ra sân chơi vì sợ ảnh hưởng đến trẻ khác. Tình trạng này kéo dài sẽ làm ảnh 
hưởng không tốt đến trẻ: sợ hãi, sụt cân, nhút nhát 
 Giải pháp “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng nhanh quen với trường lớp 
và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ phát triển tình cảm kỹ năng xã hội”đã đi sâu 
nghiên cứu đưa ra các biện pháp giúp trẻ ham thích đến lớp và quen với trường lớp.
 - Tạo nhiều cơ hội cho trẻ được gần gũi cô và các bạn, trải nghiệm thực tế để 
thích thú hào hứng đến lớp trẻ biết cảm thụ cái hay, cái đẹp trong cuộc sống của trẻ, 
của người lớn, có thái độ đúng mực với mọi người. Biết yêu thương ông bà, cha mẹ, 
biết yêu trường lớp, yêu quý thầy cô giáo, bạn bè, thích đi học, có nề nếp tốt.
 - Giúp giáo viên biết xử lý tốt các tình huống sư phạm, luôn tìm cách tạo tiền 
đề cho trẻ để trẻ có cơ hội bộc lộ được thực hiện sở thích của mình. Tạo ra những đồ 
dùng đồ chơi hấp dẫn, thân thiện với môi trường, an toàn đối với trẻ.
 7 Kết luận: Đây là điểm mới bởi tác giả đưa ra giải pháp cụ thể cho việc khắc 
phục được những tồn tại hạn chế của các giải pháp đã biết về giáo dục trẻ mầm non 
bảo vệ môi trường mà một số tác giả đã nghiên cứu.
 + Tính sáng tạo: Sáng tạo ở nội dung xây dựng thành công các hoạt động, bài 
tập, trò chơi cụ thể cho từng nội dung của giải pháp. Dựa vào điều kiện thực tế tại 
nhóm lớp mình phụ trách để nghiên cứu đề xuất giải pháp “Một số biện pháp giúp 
trẻ 24 - 36 tháng nhanh quen với trường lớp và ham thích đến lớp nhằm giúp trẻ 
phát triển tình cảm kỹ năng xã hội”.
 Giải pháp đề xuất: Thiết kế và xây dựng được nhiều hoạt động, môi trường lớp 
học, trò chơi mới, sáng tạo, phù hợp, gần gũi để giúp trẻ nhanh quen với trường 
mầm non.
 4. Khả năng áp dụng, nhân rộng.
 Giải pháp đã được sử dụng đánh giá thử tại trường mầm non Đại Bản. Kết quả 
đánh giá thử chứng minh được khả năng áp dụng có hiệu quả và giải pháp có khả 
năng nhân rộng trong các trường mầm non.
 Giải pháp đã được hoàn thiện sau khi lấy ý kiến góp ý kiến của Ban giám hiệu, 
giáo viên trong nhà trường, cha mẹ trẻ.
 + Áp dụng được ở: Khối nhà trẻ trong trường mầm non.
 + Nhận rộng: Các trường mầm non trong toàn huyện.
 5. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp:
 5.1. Hiệu quả kinh tế:
 - Giải pháp đã sáng tạo ra một số hoạt động thực hành, hoạt động lao động, bài 
tập, trò chơi, đồ dùng, đồ chơi sáng tạo được tận dụng từ những nguyên liệu sẵn có ở 
trường lớp, địa phương... tiết kiệm về chi phí, thân thiện với môi trường.
 5.2. Hiệu quả về mặt xã hội:
 - Giải pháp đề xuất góp phần thay đổi nhận thức của giáo viên, phát huy tinh 
thần tự giác, tích cực, lòng yêu nghề, sự say mê sáng tạo của đội ngũ giáo viên qua 
đó đã nâng cao được chất lượng giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non.
 - Giải pháp mà tác giả đề xuất bổ sung thêm vào việc dùng những giải pháp 
trước đó. .
 - Tạo được sự tin yêu, ủng hộ của phụ huynh cho trẻ đến trường để nâng cao tỉ 
lệ trẻ ra lớp.
 6.3. Giá trị làm lợi khác:
 - Làm cơ sở lý luận, thực tiễn, nâng cao nhận thức cho các bậc phụ huynh, cho 
giáo viên.
 - Bổ sung vào tài liệu tham khảo cho giáo viên tạo tâm lý ham thích đến trường 
và nhanh quen trường lớp cho trẻ tại nhóm lớp mình.
 8 Đại Bản, ngày tháng năm 2021
 HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH SÁNG KIẾN Tác giả sáng kiến
 TRƯỜNG
 Xếp loại: ..........(.........Điểm)
 Phạm thị Khánh Vân
 Lại Thị Thúy
 HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH SÁNG KIẾN 
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
 IV. Phụ lục: 
 1. Giáo án tổ chức hoạt động: 
 Giáo án 1
 Lĩnh vực phát tiển thể chất
 9 Tên hoạt động: VĐCB:Bò chui qua cổng
 TCVĐ: Dung dăng dung dẻ
 Chủ đề: Gia đình
 I. Mục đích-yêu cầu:
- Trẻ biết bò chui qua cổng lưng trẻ không chạm vào cổng.
-Trẻ phối hợp chân nọ tay kia nhịp nhàng khi bò.
-Trẻ hào hứng tham gia tập luyện cùng cô và các bạn.
II. Chuẩn bị:
- 4 chiếc cổng thể dục.
- Bài hát: cả nhà thương nhau, Mẹ đi vắng.
- Sân tập sạch sẽ,an toàn.
- Ghế ngồi cho trẻ.
III. Tổ chức hoạt động:
1. Hoạt động 1: “Trò chuyện cùng bé” 
 - Cô cho trẻ chơi trò chơi “Đồng hồ tích tắc”
 - Hỏi trẻ hôm nay ai cho con đi học?
 - Các con có biết vì sao hôm nay bạn Búp Bê không đi học không?
 - À vì mẹ của bạn ấy bị ốm nên không ai đưa bạn đi học. Các con có muốn đến 
thăm mẹ của Búp Bê không? Đường đến nhà của Búp Bê xa lắm, vì thế chúng ta 
phải tập luyện cho cơ thể khỏe mạnh để đi đến nhà Búp Bê nhé! Các con có đồng ý 
không?
 2. Hoạt động 2: Đến chơi nhà búp bê.
 a. Khởi động: Cô và trẻ cùng đi theo nhịp điệu bài hát “Mẹ đi vắng” với các kiểu 
đi: Đi bình thường -> Lên dốc -> Xuống dốc -> Chạy nhanh -> Chạy chậm -> Đi 
bình thường -> Chui qua hang -> Đi bình thường và đứng thành vòng tròn giãn cách 
đều.
 b. Bài tập phát triển chung: 
 + Động tác hô hấp: hít vào thở ra
 + Động tác tay: 2 Tay giơ cao.
 + Động tác lưng, bụng, lườn: Cúi về phía trước.
 + Động tác chân: Giậm chân tại chỗ. 
 - Cho trẻ về ngồi thành 2 hàng. 
 * Vận động cơ bản: “Bò chui qua cổng”
 - Cô giới thiệu cổng chui: Đường đến nhà bạn búp bê có những chiếc cổng chui. 
Muốn vào được nhà của Búp Bê thì chúng ta phải làm gì? 
 - Cô cháu mình cùng bò chui qua cổng nhé.
 - Cô thực hiện lần 1 (Không giải thích)
 10 - Cô thực hiện lần 2 + phân tích động tác: CB: quỳ trên 2 cẳng chân tay cô để sát 
vạch 2 lòng bàn tay chạm đất ngón tay hướng về phía trước. TH: Khi bò kết hợp 
chân nọ tay kia mắt nhìn về phía trước. Đến cổng, cô hơi cúi đầu chui qua, không 
chạm vào cổng, không làm đổ cổng. Đến nhà búp bê cô đứng lên chào bạn búp bê và 
về chỗ.
 - Trẻ thực hiện: lần lượt cho trẻ ở 2 tổ lên bò chui qua cổng. Cô nhắc nhở trẻ trong 
quá trình chơi tập. (Mở nhạc bài cả nhà thương nhau)
 - Thi đua 2 tổ. Thêm mỗi tổ 1 cổng(Cô khuyến khích động viên trẻ).
=> Củng cố: Hỏi trẻ tên bài tập?
3. Hoạt động 3 : Dung dăng dung dẻ.
*Cách chơi: Các con sẽ cùng cầm tay nhau vừa đi vừa đọc bải đồng dao dung dăng 
dung dẻ nhé.
* Cho trẻ chơi 2- 3 lần.
4. Hoạt động 4 : Mình cùng đi dạo.
- Cho trẻ đi nhẹ nhàng 2 - 3 vòng.
 Giáo án 2
 Lĩnh vực phát tiển nhận thức
 Tên hoạt động: Nhận biết con cá
 Chủ đề: Động vật
I. Mục đích yêu cầu:
- Trẻ biết tên gọi và một vài đặc điểm nổi bật của con cá: đầu cá, mình cá, đuôi cá, 
vây cá, cá biết bơi biết lợi ích của cá. 
- Phát triển vốn từ cho trẻ: trẻ biết nói từ con cá, đầu cá, mình cá đuôi cá, vây cá 
- Trẻ hứng thú trong giờ học, yêu quí và biết bảo vệ cá.
II. Chuẩn bị:
- Bể cá, con cá vàng to. Thức ăn cho cá. Que chỉ. 
- Mô hình con cá vàng. 
- Đoạn video clip cảnh cá bơi ở biển, hồ, ao. 
- Đĩa nhạc có bài hát cá vàng bơi. 
- 2 bảng thảm có gắn rong rêu làm bể cá, 2 con cá làm từ bông và xốp màu đỏ và 
vàng.
- Bàn thấp cho trẻ và khăn trải bàn.
- Hình con cá bằng bìa trắng có gắn bông, các bộ phận của cá có dán gai.
III. Hoạt động:
1. Hoạt động 1: cá vàng bơi
- Cô cùng trẻ hát bài: cá vàng bơi.
 11 - hỏi trẻ: vừa hát bài gì? Bài hát có con gì?
- Các con có muốn nhìn thấy con cá không?
- Cho trẻ về chỗ ngồi.
2. Hoạt động 2: Bé cùng nhận biết: Con cá
- Cô cho trẻ xem con cá trong bể và hỏi trẻ: 
+ Đây là con gì? (hỏi nhiều trẻ) Con cá màu gì? 
+ Cô chỉ từng bộ phận của cá (mình, đầu, mắt, miệng, vây, đuôi) và hỏi trẻ: Đây là 
gì của cá? Nó để làm gì?
- Con cá đang làm gì? (Bơi) Cho trẻ làm động tác cá bơi.
- Có nhà bạn nào nuôi cá không? Con cá ăn gì? Chúng mình cùng cho cá ăn nhé.
- Con làm gì để cá khỏe mạnh và bơi nhanh nhẹn nhỉ? => giáo dục trẻ cho cá ăn và 
giữ sạch nước.
* Cất bể cá và cho trẻ quan sát trên màn hình máy tính: 
- Đây là những con gì?
- Cá có màu gì?
- Cá đang làm gì?
- Cá sống ở đâu?
3. Hoạt động 3: Bé chơi ghép cá
- Cho trẻ làm cá bơi về nhóm chơi ghép các bộ phận cho cá:
+ Cô giới thiệu đồ chơi và hướng dẫn trẻ cách chơi: ghép các bộ phận cho cá để 
thành con cá màu đỏ hoặc vàng sau đó gắn con cá vàng lên bảng có con cá màu 
vàng, con cá đỏ gắn lên bảng có con cá đỏ.
- Hát và biểu diễn bài cá vàng bơi.
 2. Một số hình ảnh minh họa:
 12 Góc hoạt động với đồ vật
 13 Góc nghệ thuật
2. Hình ảnh cô tổ chức cho trẻ chơi tập.
 Bé chơi búp bê
 14 Bé chơi ghép tranh, xâu vòng, cài cúc 
 Bé vui kể chuyện
 15 Mình cùng tập thể dục nhé!
Mình cùng nghe cô kể chuyện
 16 3. Tổ chức ngày hội cho trẻ.
 Bé cùng vui tết trung thu
 17

File đính kèm:

  • docmo_ta_sang_kien_giai_phap_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_th.doc