Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24–36 tháng tuổi

doc 22 trang Phương Thanh 06/01/2025 140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24–36 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24–36 tháng tuổi

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24–36 tháng tuổi
 MỤC LỤC
Nội dung
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. Mục đích, tính mới của sáng kiến

2. Ưu điểm nổi bật của sáng kiến

3. Đóng góp của sáng kiến

PHẦN II: NỘI DUNG

Chương 1: Thực trạng của việc giáo dục phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng

Chương 2: Những giải pháp mang tính khả thi

1.Biện pháp 1: Cô giáo và người lớn phải là tấm gương sáng trong việc sử dụng ngôn ngữ.

2. Biện pháp 2: Giáo viên phải nắm vững đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ 

3. Biện pháp 3: Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các giờ hoạt động

4. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường vật chất kích thích trẻ hoạt động tích cực

5. Biện pháp 5: Làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho các hoạt động của trẻ

6. Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong phát triển vốn từ cho trẻ

Chương 3: Kiểm chứng các giải pháp của sáng kiến

PHẦN III: KẾT LUẬN

1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến

2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến

3. Kiến nghị với các cấp quản lý

PHẦN IV: PHỤ LỤC





 
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Hoạt động phát triển ngôn ngữ ở lứa tuổi 24 – 36 tháng tuổi là hoạt động đóng vai trò quan vô cùng quan trọng, không thể thiếu được ở lứa tuổi này, nó có tác động rất lớn trong quá trình phát triển toàn diện ở trẻ về mọi mặt như đức, trí, thể, mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt với trẻ mầm non, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực, thông qua ngôn ngữ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng trở thành một thành viên của cộng đồng, từ đó giúp hoà nhập với mọi người trong xã hội. Thông qua các giải pháp thực hiện giúp cho trẻ dễ dàng tiếp cận và nhận biết thế giới vạn vật xung quanh phát triển óc tư duy sáng tạo, trí tò mò mà thích khám phá từ đó nảy sinh trong trẻ những nhận thức, tình cảm đạo đức, thẩm mĩ, yêu quí ông bà, cha mẹ, thầy cô. Yêu quí loài vật, yêu thiên nhiên cỏ cây, hoa lá. Làm cho tâm hồn trẻ ngày thêm hướng thiện, vốn từ phong phú đa dạng, giúp trẻ nói sõi, nói chuẩn tiếng Việt, diễn đạt ngôn ngữ được mạch lạc rõ ràng hơn. 
Nhà trường luôn xác định chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Một trong những mục tiêu giáo dục cơ bản của nhà trường hàng năm là giáo dục cho trẻ làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe nhằm giúp trẻ phát triển tốt về mọi mặt. Nếu trẻ được làm quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng tích cực, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: thể chất, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần. Từ đó, xây dựng cho trẻ những kỹ năng sớm hòa nhập với môi trường xung quanh. 
	Năm học 2021-2022, tôi được phân công phụ trách nhóm 24 - 36 tháng tuổi, qua thực tế tôi thấy, đặc điểm tâm sinh lí nhận thức của trẻ ở độ tuổi này còn rất nhiều hạn chế do các cơ quan và bộ máy phát âm của trẻ chưa được hoàn thiện. Trẻ nói chưa đúng, chưa đủ câu nên khả năng diễn đạt ngôn ngữ, câu chưa được rõ ràng. Nên tôi nghĩ cần tìm ra những giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi ngay từ ban đầu là rất quan trọng chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài này “Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24 – 36 tháng tuổi” .
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 	1. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi
Trường Mầm non Đại Lai được thành lập từ năm 1992. Trải qua các giai đoạn xây dựng và trưởng thành từ trường mầm non dân lập, đến ngày 30 tháng 3 năm 2011 được UBND huyện Gia Bình ra Quyết định chuyển đổi thành trường mầm non công lập xã Đại Lai. Từ khi thành lập đến nay trường mầm non Đại Lai luôn giữ vững là đơn vị trường tiên tiến, thành tích năm sau luôn cao hơn năm trước. 
Trường có 01 điểm trường; điểmTrung tâm nằm trên địa bàn xã Đại Lai có18 nhóm, lớp và 460 học sinh, được chia thành 18 nhóm lớp, nhà trẻ 6 nhóm, mẫu giáo 12 lớp. CSVC tương đối khang trang, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của đổi mới giáo dục hiện nay. 
- Về đội ngũ quản lý: 	
 BGH: 3 đồng chí (1 hiệu trưởng , 2 phó hiệu trưởng)
- Về đội ngũ giáo viên:
Tổng số năm học 2021-2022 có : 44 giáo viên/ 18 nhóm lớp 
- Trình độ chuyên môn giáo viên: 
Năm học
Trình độ chuyên môn
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
2021-2022
43
1
0
a, Ưu điểm:
 	- Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định.
 	- Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban Giám Hiệu nhà trường.
 	- Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của các bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập các lớp chuyên đề do sở, phòng tổ chức.
 	- Giáo viên trong lớp có tinh thần đoàn kết, có sự phối hợp với nhau trong công tác giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển vốn từ cho trẻ. 
 	- Đa số phụ huynh nhiệt tình có nhận thức về việc học tập của con em mình, sẵn sàng phối hợp với giáo viên trong giáo dục trẻ.
 	- Bản thân tôi luôn tự học, rèn luyện, làm đồ chơi phục vụ cho các hoạt động.
b, Hạn chế và nguyên nhân hạn chế:	
 	- Trẻ nhà trẻ là độ tuổi còn non nớt, có nhiều trẻ chưa biết nói, một số cháu phát âm chưa chuẩn, nhận thức chưa được nhiều.
 	- Các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có đặc điểm, tính cách khác nhau.
- Giáo viên luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục trẻ trong các hoạt động nhưng do trang thiết bị dạy học còn hạn chế nên giờ học âm nhạc còn chưa thật sinh động.
 	- Một số trẻ trong lớp còn có tính thụ động ít giao lưu trong giờ học. 
- Đa số phụ huynh là những người nông dân thuần túy hoặc làm nghề buôn bán tự do nên kiến thức và kỹ năng rèn luyện phát triển vốn từ cho trẻ còn hạn chế. 
- Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ còn nhiều thiếu thốn.
Năm học 2021 - 2022 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 24-36 tháng tuổi D4. Ngay từ đầu năm học, tôi đã khảo sát vốn từ của trẻ ở 3 mặt khác nhau đối với trẻ ở độ tuổi 24 – 36 tháng tuổi D4 và đã thu được kết quả sau:
Tổng số trẻ
Trẻ nói được câu đơn

Trẻ nói được câu ghép

Trẻ nói được rõ ràng

Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
20
17
3
11
9
5
15
Tỷ lệ %
85%
15%
55%
45%
25%
75%

Như vậy, qua khảo sát ta thấy tỷ lệ trẻ đạt cả 3 mặt là rất thấp. Đặc biệt là đầu năm học khi trẻ được nghỉ hè ở nhà với gia đình, lượng vốn từ và khả năng sử dụng vốn từ của trẻ chưa tốt. Nhiều trẻ khi tham gia vào các hoạt động trên lớp còn không nói được tên đồ dùng, không diễn đạt được ý mình bằng lời nói mà đưa tay lên chỉ vào những gì trẻ muốn nói với cô. Chính vì vậy cần phải có biện pháp khắc phục để phát triển vốn từ và giúp trẻ sử dụng vốn từ cho tốt.
2. Biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động phát triển vốn từ cho trẻ	
 	Việc phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng tuổi một cách hiệu quả là một thử thách rất lớn không chỉ với riêng tôi mà tất cả giáo viên mầm non chúng ta, nó đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tâm huyết, khéo léo, vận dụng linh hoạt bản thân tôi đã đúc rút kinh nghiệm cần phải thực hiện tốt một số biện pháp sau:
a, Biện pháp 1: Cô giáo và người lớn phải là tấm gương sáng trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Trẻ em học mọi điều từ cuộc sống dưới hình thức “bắt chước”. Hơn nữa thời gian mà trẻ tiếp thu kiến thức về mọi mặt từ cuộc sống ở trường nhiều hơn ở nhà. Nếu ở nhà, ông bà, cha mẹ là những người gần gũi, yêu thương trẻ nhất thì ở trường cô giáo cũng vậy. Trẻ thường xuyên tiếp xúc và học hỏi ở cha mẹ, cô giáo từ những điều nhỏ nhặt nhất đến những cái lớn lao. Chính vì vậy cô giáo và người lớn cần phải là tấm gương sáng trong việc sử dụng ngôn ngữ. Trong quá trình rèn luyện để phát triển vốn từ cho trẻ cô giáo luôn phải ân cần, kiên trì, yêu thương, tôn trọng, và đối sử công bằng với trẻ. Cô giáo cần mẫu mực trong cách giao tiếp, ứng xử khi làm việc, khi giao tiếp cùng người khác và đặc biệt nhất là trong giao tiếp với trẻ. Cô giáo và người lớn cần phải dụng từ ngữ văn minh, lịch sự nhưng gần gũi, dễ hiểu, trong phát âm phải chuẩn xác khi giao tiếp với trẻ để trẻ bắt chước, học hỏi.
b, Biện pháp 2: Giáo viên phải nắm vững đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ. 
Muốn phát triển vốn từ cho trẻ, theo tôi điều đầu tiên chúng ta phải hiểu được phát triển vốn từ cho trẻ là gì? Phát triển vốn từ cho trẻ là giúp trẻ nắm vững được nhiều từ, hiểu ý nghĩa của từ và biết sử dụng từ trong các tình huống giao tiếp. Để làm được như vậy tôi phải dựa trên các cơ sở lý luận sau :
* Cơ sở ngôn ngữ. Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ :
Vốn từ của trẻ tăng nhanh. Số lượng từ chủ động của trẻ từ 500 - 600 từ. Trong vốn từ của trẻ có tất cả các loại từ đơn, từ ghép. Ở trẻ có cả từ ghép có 3 - 4 tiếng bên cạnh đó trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ thích tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh, những từ các cháu được sử dụng hầu hết là những từ chỉ tên gọi, những gì gần gũi xung quanh mà hàng ngày trẻ tiếp xúc. Ngoài ra, trẻ cũng nói được một số từ chỉ hành động, chỉ những công việc của bản thân và mọi người xung quanh, chỉ hành động của những con vật mà trẻ biết .
 Ví dụ : Con mèo - Con mèo bắt chuột
 Ô tô - Kêu bíp bíp
 Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng còn hạn chế, bộ máy phát âm của trẻ đang hoàn thiện dần nên khi trẻ nói, trẻ hay nói chậm, hay kéo dài giọng, đôi khi còn ậm ừ, ê a, không mạch lạc. Để giúp trẻ phát triển vốn từ, người giáo viên cần phải nắm vững đặc điểm vốn từ của trẻ. Mặt khác cô giáo phải nói to, rõ ràng, rành mạch, dễ nghe.
* Cơ sở tâm lý :
 Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan hành động. Thời kỳ này, khả năng tri giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện. Trẻ hay bắt chước những cử chỉ, và lời nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo và người lớn phải chính xác để trẻ nói theo.
* Cơ sở giáo dục :
 Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con người và sự vật hiện tượng xung quanh
 Để thực hiện điều đó phải thông qua nhiều phương tiện khác nhau như qua các giờ học, các trò chơi, dạo chơi ngoài trời và sinh hoạt hàng ngày, rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ biết nghe, hiểu và phát âm chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ, hướng dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu. Vì vậy khi cho trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên, đặc điểm của đối tượng, không những thế, giáo viên dạy trẻ biết nói câu đầy đủ, rõ nghĩa, dạy trẻ phát âm đúng các âm chuẩn của Tiếng Việt, đảm bảo các nguyên tắc của giáo dục học tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa sức, tính tiếp thu.
 Dựa vào những cơ sở lý luận trên, đối chiếu với tình hình thực tế, tôi nhận thấy sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là khá lớn. Qua quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế của gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thời gian trò chuyện với trẻ hay không? Cô và cha mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về sinh hoạt và bạn bè hay không? Cô có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không? Ngày nghỉ, bố mẹ có đưa con đi chơi, đi thăm họ hàng hay không?.... Tất cả những điều đó không chỉ làm tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết và xúc cảm của trẻ.
c, Biện pháp 3: Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các giờ hoạt động
 Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường Mầm non là công tác giáo dục có kế hoạch, có mục đích, có tổ chức và phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ như một phương tiện giao tiếp quan trọng vì thế chúng ta phải dạy cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trên những hoạt động cụ thể, trong đó phát triển ngôn ngữ, vốn từ phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
* Thông qua hoạt động nhận biết tập nói :
 Đây là một hoạt động quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp từ vựng cho trẻ. Trẻ lứa tuổi 24 -36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói một từ, nói ngọng, nói lắp... Cho nên trong giờ hoạt động có chủ định, cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô cũng phải chuẩn bị các hình thức tổ chức mới lạ nhằm hấp dẫn trẻ, một hệ thống câu hỏi rõ ràng, ngắn ngọn, trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói câu cụt lủn hoặc cộc lốc.
 Ví dụ: Trong hoạt động Nhận biết tập nói: “Con gà” Cô phải chuẩn bị mô hình con gà, để trẻ sử dụng các giác quan: Sờ, nhìn, nếm, ngửi, nhằm phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ định.
 Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát, cô cần đưa ra một hệ thống câu hỏi :
 + Đây là con gì ? ( Đây là con gà ạ ! )
 + Con gà có màu gì? ( Màu đen ạ! )
 Như vậy nhờ có sự giao tiếp giữa cô và trẻ đã giúp trẻ phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ, phát triển năng lực quan sát, phát triển các giác quan, kích thích lòng ham hiểu biết tìm tòi khám phá về những điều bí ẩn của các sự vật xung quanh. Qua đó củng cố, mở rộng vốn hiểu biết, làm giàu vốn từ cho trẻ.
Hình ảnh trẻ quan sát mô hình con gà
* Qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
 Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học chính là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ngoài việc rèn luyện kỹ năng nghe, hiểu còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói. Muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng học thêm được các từ mới qua hoạt động đọc thơ, kể truyện .
 Khi tiếp xúc với bài thơ, câu chuyện là trẻ đã được tri giác các bức tranh có hình ảnh và từ ngữ mới tương ứng với nội dung bức tranh.
 Ví dụ: Trẻ nghe truyện “Thỏ ngoan” Cô muốn cung cấp cho trẻ từ “Ướt lướt thướt”
 Cô có thể cho trẻ xem tranh, mô hình, và giải thích từ “ướt lướt thướt”. Bên cạnh
đó cô cũng chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học:
 + Bác gấu đen đi đâu? ( Đi chơi rừng ạ!)
 + Chuyện gì xảy ra với Bác? ( Bác gặp mưa ạ!)
 + Khi gặp trời mưa, bác gấu đã bị làm sao? ( Ướt lướt thướt ạ!)
 Cô kể lần 1 - 2 giúp trẻ hiểu tác phẩm và đặt tiếp hệ thống câu hỏi hướng vào việc hiểu biết các hành động của nhân vật để trẻ hiểu việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
 + Qua câu truyện, con yêu quý ai? ( Bác gấu đen, bạn thỏ ạ! )
 + Vì sao? ( Vì bạn thỏ trắng, và bác gấu là những người tốt bụng ạ! )
 Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn dạy trẻ thể hiện và mô phỏng những động tác tương ứng với nhân vật trong bài thơ, câu truyện. Khi trẻ ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng nhiều từ mới thì lúc đó trẻ sẽ thể hiện được một số câu, một số tình huống tương ứng với nội dung truyện đó.
 Bên cạnh đó cô cũng thường xuyên đọc thơ, kể truyện cho trẻ nghe, khuyến khích trẻ phát âm và yêu cầu trẻ trả lời một số câu hỏi đơn giản.
Hình ảnh trẻ trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
* Qua giờ chơi
 Đây có thể coi là một trong những hình thức quan trọng nhất. Bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ cho trẻ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời 
gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình chơi trẻ được sử dụng các loại từ 
khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung rất khác nhau .
 Ví dụ: Trò chơi bế em 
 + Em búp bê của con ăn chưa? (Búp bê ăn rồi ạ!)
 + Con cho Búp bê ăn gì? (Con cho ăn bột ạ!)
 + Con đã cho búp bê ăn lúc nào vậy? (Con vừa cho ăn xong ạ!)
+ Cô có thể nhập vai làm mẹ cho búp bê bú bình, cho búp bê ăn, búp bê ngủ trẻ sẽ bắt chước những lời cô nói như :“ Con của mẹ ngoan quá! Mẹ yêu con lắm, con xinh quá! Con thật đáng yêu...”. Bên cạnh đó trẻ còn biết bắt chước cô hát ru “ à ơi” cho em bé ngủ.
 Ngoài trò chơi phản ánh sinh hoạt đời thường, trong giờ chơi, cô tổ chức cho trẻ 
chơi những trò chơi học tập nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
 Điều đó cho thấy giờ chơi không chỉ dạy trẻ kỹ năng chơi mà còn dạy trẻ nghe, 
hiểu, giao tiếp cùng nhau và diễn đạt ý tưởng chơi của mình với bạn chơi.
 Trong quá trình chơi, trẻ được thực hiện nhiều hành động khác nhau với đồ chơi như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát triển lời nói cho trẻ.
 Ví dụ: + Hưng ơi! Con đang xếp gì đấy? (Con xếp ô tô ạ!)
 + Ô tô kêu thế nào? (Kêu bíp bíp ạ!)
 Như vậy trò chơi sáng tạo cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá trình chơi trẻ bắt buộc phải giao tiếp với nhau do vậy vốn từ của trẻ được phát triển ngày một phong phú..
 Ví dụ: + Trò chơi với động từ, danh từ 
 Cô nói động từ, trẻ nói ghép các danh từ chỉ người, con vật, sự vật thích hợp với động từ đó hoặc ngược lại như:
 Con mèo - đi Máy bay - bay
 Ô tô - chạy Con chim - bay 
	 Còi tàu - kêu Vịt - kêu 
 + Trò chơi với các tính từ :
 Cô nói tính từ chỉ mầu sắc của các sự vật, phẩm chất của người ..., cháu nói 
danh từ phù hợp với các tính từ đó ( hoặc ngược lại) như: 
 	Gió thổi - ào ào Chuông kêu - leng keng
 Thác đổ - ào ào Kẻng kêu - leng keng
 + Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật:
 Cô nói Trẻ làm tiếng kêu
 Con mèo Meo meo
 Con vịt Cạp cạp 
 Trong quá trình chơi trẻ được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động khác nhau, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để tìm tòi, khám phá cách chơi, luật chơi.
 Bên cạnh đó việc cho trẻ tham gia các trò chơi dân gian hàng ngày như “Nu na nu nống, kéo cưa lừa xẻ...” cô giáo có vai trò quan trọng thúc đẩy, kích thích trẻ sử dụng ngôn ngữ và phát triển lời nói mạch lạc, đúng ngữ pháp của trẻ.
 	* Qua giờ hoạt động âm nhạc.
 Qua các hoạt động âm nhạc trẻ được nghe và cảm nhận lời bài hát qua giai điệu, được tiếp xúc nhiều với nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách tre, và nhiều chất liệu) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại hoạt động (Vận động) theo bài hát một cách nhịp nhàng. Qua đó trẻ hiểu biết hơn, vốn từ rộng hơn, khả năng sử dụng từ tốt hơn. Đồng thời nhờ sự giao tiếp bằng ngôn ngữ trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc .
 Qua những giờ âm nhạc, trẻ được hát, được vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có

File đính kèm:

  • docbao_cao_mot_so_bien_phap_phat_trien_von_tu_cho_tre_lua_tuoi.doc